✨Hải Thụy
Hải Thụy (Wade-Giles: Hai Rui, tiếng Trung: 海瑞) (23 tháng 1 năm 1514 - 13 tháng 11 năm 1587) là một vị quan Trung Quốc trong thời nhà Minh, phục vụ qua ba triều vua Minh Thế Tông, Minh Mục Tông và Minh Thần Tông.
Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, được nhân dân yêu mến, và cũng nổi tiếng vì nhiều lần bị bãi quan hay từ quan do sự cương trực thẳng thắn của mình. Trong ba mươi ba năm làm quan, Hải Thụy bị bãi quan hay từ quan ba lần, tổng số thời gian bị bãi quan ngang ngửa thời gian làm quan. Ông cũng là nhân vật chính trong vở kịch nổi tiếng Hải Thụy bãi quan do Ngô Hàm sáng tác.
Thiếu thời
Hải Thụy sinh ra tại Quỳnh Sơn, Hải Nam. Hải Thuỵ xuất thân từ một gia đình gốc Hồi giáo, ông nội là Hải Đáp Nhi (海答兒, tức là Haidar, một tên nguồn gốc Ả Rập) người Quảng Châu, còn mẹ ông thuộc một gia tộc người Hồi có nguồn gốc ở tiểu lục địa Ấn Độ.; tuy nhiên bản thân Hải Thuỵ không hề nhắc đến Hồi giáo trong các trước tác của mình và trước sau ông là một nhà Nho. Cha ông là Hải Hãn qua đời khi ông 3 tuổi và ông được mẹ là Tạ thị nuôi dưỡng. Quỳnh Sơn, Hải Nam, một vùng đất nổi tiếng là nghèo khổ, khắc nghiệt, dựa vào mấy mẫu ruộng xấu và nghề may vá thêu thùa của Tạ thị làm kế sinh nhai. Tuy nhiên, Tạ thị nuôi dạy Hải Thuỵ rất chu đáo và nghiêm khắc, vừa tự tay dạy học cho Hải Thuỵ, vừa tìm chọn thầy giỏi cho con. Cuộc sống khó khăn cũng như tính cách của người mẹ đã ảnh hưởng rất lớn đến bản tính cương trực, liêm chính của Hải Thuỵ và cũng là một nguyên nhân cho gia đình không hạnh phúc sau này của ông.
Tri huyện Thuận An
Con đường khoa bảng của Hải Thụy không suôn sẻ. Năm Gia Tĩnh thứ 28, Hải Thụy đỗ cử nhân kỳ thi Hương, năm Gia Tĩnh thứ 32 (1554) được bố chức Giáo dụ, một chức học quan cấp thấp ở Nam Bình, tỉnh Phúc kiến. Năm Gia Tĩnh 37 (1558) được thăng Tri huyện Thuần An, phủ Nghiêm Châu, Chiết Giang, hàm thất phẩm.
Hạch tội hoàng đế
Tuy nhiên lúc này gian thần Nghiêm Tung vừa bị lật đổ, đồng đảng của y như Hồ Tôn Hiến và Yên Mậu Khanh cũng thất thế, những người như Hải Thuỵ trở thành anh hùng. Nhờ thượng cấp cũ là thị lang bộ Lại Chu Hoành ra sức tiến cử, Hải Thụy mau chóng phục chức làm tri huyện Hưng Quốc, ít lâu sau thăng làm Chủ sự bộ Hộ, từ thất phẩm lên được lục phẩm, lại còn được làm việc ở kinh thành.
Lúc này, vua Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế suốt ngày khấn khứa với hương khói, quên cả việc thiết triều, các đại thần chỉ đón ý lựa lời, tránh bẩm báo những công việc với Hoàng đế, hoặc chỉ nói những lời chúc mừng, nỗi khổ của nhân dân chẳng ai hỏi tới. Vì vậy, vào năm 1566, Hải Thụy dâng tấu can ngăn, hy vọng Minh Thế Tông thay đổi, chấn chỉnh lại việc nước. Nhưng mà tờ tấu lại quá thẳng thắn, nói toạc ra các lỗi lầm và của hoàng đế, chê trách Minh Thế Tông gây ra tình trạng "quan tham hoành hành, dân hết đường sống, thủy tai triền miên, giặc cướp khắp nơi. Thậm chí Hải Thuỵ còn bảo nhà vua không làm tròn vai trò của chồng, cha cũng như vua, tức là trong ba mối quan hệ của "tam cương" thì hoàng đế không làm được cái gì hết. Kiểu tấu sớ như vậy chưa hề có tiền lệ, trước đây các gián thần thường phê bình việc của vua, chỉ có Hải Thụy là phê bình nhân phẩm của vua không chút kiêng nể. Vua Thế Tông đọc xong nổi giận đùng đùng, cho bắt Hải Thuỵ bỏ ngục, khép vào tội chết. Tuy nhiên có viên thái giám Hoàng Cẩm liều chết can ngăn, quan thủ phụ Từ Giai cũng ra sức can gián, nhà vua cũng ít nhiều biết Hải Thuỵ nói đúng, vì vậy chưa giết Hải Thuỵ ngay mà để cho Đông xưởng giám sát. Bị giam mười tháng thì Minh Thế Tông chết, Minh Mục Tông Long Khánh Đế nối ngôi đã cho thả Hải Thuỵ. Lũ đại địa chủ thấy ân nhân mà Hải Thuỵ cũng "xử", đành phải làm theo Từ Giai, trả lại ruộng đất đã chiếm đoạt. Hải Thụy được ca ngợi là "Hải Thanh Thiên", là "Bao Công tái thế".
Những hành động liêm chính của Hải Thụy đã động chạm đến quyền lợi của bọn địa chủ, quan lại, thế gia, vì vậy tấu sớ đàn hặc Hải Thuỵ tới tấp bay về triều, từ những lời phê bình chừng mực có cơ sở đến những lời vu khống, soi mói đời tư. Đối với trăm họ lê dân, Hải Thụy là quan thanh liêm, cương nghị, chính trực, nhưng với quan lại đồng liêu là kẻ gàn dở, kỳ quái, không thể làm việc chung. Triều đình lại theo cách cũ, tìm cách sắp xếp cho Hải Thuỵ một chức vụ không có thực quyền gì, nhưng càng khiến Hải Thụy phẫn nộ. Ông viết thư mắng chửi quan thủ phụ Cao Củng, còn dâng tấu lên hoàng đế nói quan lại nho sĩ nhu nhược như đàn bà. Cuối cùng năm 1570, Hải Thụy từ quan về ẩn cư ở quê nhà Hải Nam.
Hải Thuỵ được làm quan, lại làm bùng lên làn gió liêm chính, dâng tấu lên hoàng đế tố cáo tình trạng tham ô hủ bại trong triều đình, kêu gọi hoàng đế bớt ăn chơi xa xỉ, giảm quy mô hậu cung thái giám, đề xuất dùng hình pháp hà khắc lóc da, nhét cỏ đối với quan tham ăn hối lộ. Bọn quan lại trong triều liền phản ứng gay gắt, tố cáo Hải Thuỵ nguỵ quân tử, lấy cớ can gián vua để mua danh thanh liêm chính trực, ý muốn huỷ diệt cả thanh danh của Hải Thuỵ. Hải Thuỵ cũng không vừa, trước lời tố cáo đã biện luận vững vàng, khí thế ngời ngời, không gì đả kích nổi. Minh Thần Tông sau khi nghe hai bên tranh luận đã nói "gần đây [Hải Thuỵ] có điều trần về trọng hình là trái với thể chế, liên quan tới trẫm, lời lẽ gàn dở và trẫm đã tha thứ", đồng thời theo cách làm cũ không giao cho Hải Thuỵ làm việc gì nhưng vẫn nắm chức phẩm cao để "trấn áp tà tục, chấn hưng phong khí". Nói cách khác là biến Hải Thuỵ thành vật trang trí cho chính quyền. Hơn nữa, lúc chết tiền tích cóp được không đủ để làm lễ tang, đồng liêu bạn bè phải quyên góp thêm, tài sản để lại chỉ có 150 lạng bạc, gấm vóc mỗi thứ một súc, đó là con số cực kì nhỏ đối với một mệnh quan hàm nhị phẩm. Hải Thụy cũng là người ham làm việc, có trách nhiệm và tận tuỵ, không muốn ngồi không hưởng lộc.
Chính vì vậy, Hải Thuỵ được nhân dân trăm họ vô cùng ngưỡng mộ, ủng hộ nhiệt thành, nhưng lại đắc tội với hầu hết giới quan lại triều đình. Các biện pháp liêm chính của Hải Thuỵ động chạm đến lợi ích của quan lại, cường hào, cũng phá vỡ đến các nguyên tắc "quan hệ", "tình cảm", "hiếu kính" giữa giới quan lại và thân sĩ, vì vậy mỗi lần Hải Thuỵ "liêm chính" là triều đình náo động, tấu sớ bay về tới tấp hặc tội. Có người khuyên Hải Thuỵ nên mềm dẻo một chút, ông vặc lại: giả sử không mềm dẻo thì không có thăng quan hay giáng chức sao. Người kia thấy Hải Thụy sùng bái nguyên tắc, lại còn “giả sử”, "giả sử" như thư sinh, nên cũng đành chịu. Khi Hải Thuỵ làm tuần phủ Ứng Thiên, Trương Cư Chính đã có thư cho Hải Thuỵ, khuyên ông khéo léo hoà giải và giữ thể diện cho cả Từ Giai và Cao Củng đang kình địch nhau, nhưng không ngờ Hải Thuỵ quyết giữ lập trường chính trực công bằng mà đắc tội với cả ba họ Trương, Từ, Cao, những thế lực lớn nhất trong triều đình. Đối với quần chúng nhân dân, Hải Thuỵ là quan thanh liêm chính trực, một lòng vì dân vì nước, nhưng cũng vì vậy mà bị bọn quan lại ganh ghét và xa lánh, cho rằng ông là người gàn dở, nhỏ nhen, không có tình người, không thể hợp tác, xem đồng liêu như kẻ thù. Và cũng vì chúng không thể sống trong sạch được như Hải Thuỵ. Cũng chính vì cương trực đến "mất lòng" quan lại mà Hải Thuỵ thường xuyên bị bãi quan hay từ quan. Trong ba mươi ba năm làm quan, ông bị mất chức ba lần, số thời gian bị bãi quan chiếm đến một nửa, nhưng sau mỗi lần bãi quan lại được thăng quan, quan chức ngày một cao, đến lúc mất làm đến hữu đô ngự sử đô sát viện Nam Kinh, hàm nhị phẩm.
Tuy nhiên cũng chính các địch thủ của Hải Thụy đã đánh gia cao nhân phẩm đạo đức và tư tưởng bài trừ tham ô hủ bại của ông. Cao Củng và Trương Cư Chính đều cho rằng Hải Thuỵ làm việc xuất phát từ mục đích "trừ ác", "vì dân", chỉ có cách làm không thoả đáng, thiếu tình người, phải điều chỉnh chỗ "quá khích" của Hải Thuỵ chứ không được phủ nhận những chỗ "đau xót vì tệ nạn, làm chủ cho dân" của ông. Cấp sự trung Thư Hoá khi dâng tấu đàn hặc Hải Thuỵ cũng thừa nhận đạo đức trong sạch của ông, chỉ bất bình về chính lệnh hà khắc, và đề nghị giao cho Hải Thuỵ một chức vụ không có thực quyền ông tránh dây vào rắc rối. Đó cũng là cách mà triều đình sắp xếp chức vụ cho Hải Thuỵ, ban cho chức phẩm cao nhưng không giao việc gì, thuần tuý là "vật trang trí".
Đạo đức trong sạch của Hải Thụy ít nhiều do hoàn cảnh sống kham khổ lúc nhỏ, và cũng do sự dạy bảo chu đáo, nghiêm khắc của mẹ là Tạ thị. Nhưng Tạ thị cũng là nguyên nhân dẫn đến bất hạnh gia đình của ông. Một bà lão góa chồng khi còn trẻ, sống cùng đứa con lớn, thì ít nhiều về mặt tâm lý sẽ có một số vấn đề, quan hệ với con dâu cũng nhiều trục trặc, hai người vợ đầu của Hải Thụy đều vì bất hòa với mẹ chồng mà bỏ đi, trong đó người vợ thứ hai mới về nhà chồng được chừng một tháng. Trong văn tế Hải Thụy có một câu chua xót "nặng tình nghề nghiệp, mỏng bề khuê các". Đó cũng là điều mà các kẻ thù công kích Hải Thuỵ nhiều nhất, họ cho rằng Hải Thụy không biết sống hạnh phúc với vợ con thì cũng không thể quan hệ tốt với đồng liêu.