nhỏ|Trứng của Gà lôi lam mào trắng
nhỏ|Gà lôi lam mào trắng (con mái)
Gà lôi lam mào trắng (danh pháp hai phần: Lophura edwardsi) là một loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae), đặc hữu tại khu vực rừng mưa nhiệt đới của Việt Nam. Loài gà lôi này có chiều dài 58–67 cm. Con trống thường có sắc lông màu lam thẫm ngả sang màu đen còn con mái có màu nâu. Chân và mặt của gà lôi lộ phần da màu đỏ.
Loài này có 2 biến chủng. Chủng danh định L. e. edwardsi trên đầu có mào và đuôi có lông trắng. Biến chủng phía bắc L. e. hatinhensis thì có thêm lông vũ ở cánh cũng màu trắng. Sự khác biệt này trong hai chủng có thể là do giao phối cận huyết của một quần thể bị hạn chế và phân mảnh tại khu vực đó. Biến thể hình dáng cũng xuất hiện khi L. e. edwardsi bị nuôi nhốt. Chủng phía bắc đôi khi được một số tác giả coi là loài riêng biệt, gọi là gà lôi lam đuôi trắng (Lophura hatinhensis) (như Võ Quý, 1975).
Loài Gà lôi lam mào trắng tại thời điểm năm 2021 được đánh giá là loài cực kỳ nguy cấp, do bị săn bắn, mất môi trường vì nạn phá rừng và vì chất độc da cam từ thời chiến tranh Việt Nam.
Từ năm 2000 đến nay, không ghi nhận các bằng chứng về loài này ở tự nhiên. Hiện nay, loài này đã được Vườn Thú Hà Nội và Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên Việt nuôi sinh sản thành công. Trong trường hợp nuôi nhốt gà lôi này sinh trưởng khá tốt nên được xem là loài bảo tồn ngoại vi. Loài chim này được đặt tên khoa học theo tên nhà điểu học người Pháp Alphonse Milne-Edwards.
Giới thiệu về loài
nhỏ|Gà Lôi Lam mào trắng
Gà lôi lam mào trắng là một loài chim Trĩ bị đe dọa ở mức Rất nguy cấp, được phát hiện từ năm 1896, và là loài đặc hữu của khu vực miền Trung Việt Nam. Ghi nhận cuối cùng về sự xuất hiện của loài này trong tự nhiên là từ năm 2000; và có thể đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên. Tuy nhiên, thông tin về loài này rất hạn chế như: đai cao phân bố, yêu cầu về sinh cảnh sống, và các đặc điểm sinh thái cơ bản. Người ta cho rằng, Gà lôi lam mào trắng ưa sinh sống trong "các khu rừng cực kỳ ẩm ướt ở khu vực núi thấp và trung bình", và đặc biệt cẩn trọng, hiếm khi rời khỏi "những sườn đồi phủ cây bụi và dây leo dày đặc" (Delacour 1977). Tuy nhiên, tất cả các địa điểm thu mẫu loài này từ trước đến nay đều trong những vùng rừng đất thấp tương đối bằng phẳng, và không có bằng chứng nào cho thấy chúng có thể sống ở độ cao trên 300m.
May thay, hiện tồn tại một quần thể nuôi nhốt của Gà lôi lam mào trắng gồm khoảng 1.000 cá thể ở các vườn thú và trang trại tư nhân tại châu Âu, Nhật Bản và châu Mỹ. Tuy nhiên, quần thể nuôi nhốt này phát triển từ một quần thể gốc ban đầu rất nhỏ (28 cá thể, trong đó 6-8 con mái, được thu thập từ năm 1924 đến năm 1930; và không hề được bổ sung thêm cá thể hoang dã nào) và do đó bị đồng huyết một cách nghiêm trọng.
Phân loại và sinh thái học
Phân loại học
Gà lôi lam mào trắng Lophura edwardsi là một thành viên trong giống Lophura. Gà lôi lam mào trắng được mô tả lần đầu tiên vào năm 1896. 28 năm sau đó, một loài Lophura khác, Gà lôi lam mào đen Lophura imperialis đã được mô tả từ một đôi còn sống được các nhà truyền giáo mua hoặc thu được tại vùng giáp ranh giữa tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị (Delacour & Jabouille 1925). Gà lôi lam mào đen được ghi nhận thêm 3 trường hợp ngoài thực địa nữa (BirdLife International 2001), cho đến khi được chứng minh là con lai giữa Gà lôi lam mào trắng và Gà lôi trắng Lophura nycthemera, theo Rasmussen (1998), Garson (2001), BirdLife International (2001) và Hennache và cộng sự (2003). Năm 1964, hình thái tương tự thứ ba của gà lôi đã được phát hiện (nhưng con đực có các lông đuôi giữa màu trắng) và được đặt tên là Gà lôi lam đuôi trắng Lophura hatinhensis (Vo Quy 1975). Sau khi được phát hiện, số lượng Gà lôi lam đuôi trắng ghi nhận được tăng lên rất nhanh, sau đó nhanh chóng giảm xuống, với ghi nhận lần cuối năm 1999 (BirdLife International, 2001). Hầu hết Gà lôi lam đuôi trắng được ghi nhận tại phía bắc khu vực phân bố của Gà lôi lam mào trắng ở tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Tuy nhiên, một trường hợp được ghi nhận gần sông Hương, cách Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, 15 km về phía nam vào năm 1999, rất gần ranh giới phía nam của khu vực phân bố của Gà lôi lam mào trắng (BirdLife International 2001; Hennache và cộng sự 2012). Gần đây, Gà lôi lam đuôi trắng đã được đề xuất là một biến dị do giao phối cận huyết của Gà lôi lam mào trắng (Hennache và cộng sự 2012). Vì thế, hiện nay Gà lôi lam mào trắng là loài duy nhất trong ba loài được công nhận và có tên trong Sách đỏ của IUCN. Do đó, những ghi nhận về Gà lôi lam mào trắng được nhắc đến trong tài liệu này cũng bao gồm thông tin về các cá thể trước đây được coi là Gà lôi lam đuôi trắng.
Sinh thái
Kiến thức về loài này còn rất hạn chế, vùng phân bố, điều kiện môi trường sống và sinh thái cơ bản.
Thức ăn
Chưa có thông tin nào đề cập về chế độ ăn uống của loài này trong tự nhiên.
Sinh sản
Một cá thể non đã được bắt ngoài tự nhiên vào ngày 15/4/1926 tại Huế và được ông Pierre Jabouline nuôi (mẫu tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên quốc gia, Paris, Pháp). Mọi thông tin khác đều có được từ việc quan sát các cá thể trong nuôi nhốt. Thời gian đẻ trứng thường là từ tháng Ba đến tháng Năm; lứa đầu tiên được ghi nhận gồm 5 quả trứng, nở sau 21 ngày; theo quy luật, các cá thể gà chỉ bắt đầu sinh sản sau 2 tuổi (Delacour 1977). Một con trống nở trong điều kiện nuôi nhốt đã sống được 22 năm (Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Delaware, Greenville, USA, thông tin ghi trên nhãn). Một con trống khác cũng sống tới 22 tuổi tại Jersey Durrell Wildlife Park (thông tin từ Alain Hennache 2015). Một con trống hoang dã thu được ở Quảng Trị vào tháng 12/1996 khi mới khoảng một tuổi và sau đó được chuyển đến nuôi tại Vườn thú Hà Nội đã sống thêm hơn 17 năm, đến năm 2013 (theo thông tin từ Đặng Gia Tùng, 2015).
Phân bố
Gà lôi lam mào trắng là loài đặc hữu của miền Trung Việt Nam và trong lịch sử đã được ghi nhận tại 4 tỉnh (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Huế). Loài này được mô tả lần đầu từ 4 cá thể mẫu do các nhà truyền giáo Pháp thu được tại Quảng Trị (mẫu tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên quốc gia, Paris, Pháp). Từ năm 1923 đến năm 1929, Delacour tổ chức 7 chuyến nghiên cứu ở Đông Dương và thu được 64 cá thể, trong đó 28 cá thể được vận chuyển sang Pháp và được cho là quần thể sáng lập cho quần thể nuôi nhốt hiện nay (Ciarpaglini & Hennache 1997).
Từ năm 1930 đến năm 1996, không có cá thể Gà lôi lam mào trắng có hình thái điển hình nào được ghi nhận; nhưng trong giai đoạn từ 1964 đến 1995 đã xuất hiện ít nhất 31 cá thể ở dạng biến dị do đồng huyết (con trống có một số lông đuôi giữa màu trắng) ở khu vực Kẻ Gỗ và Khe Nét thuộc hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Năm 1996, một cá thể có hình thái điển hình được phát hiện gần xã Phong Mỹ, Thừa Thiên Huế và một cá thể ở gần xã Hướng Hiệp, Quảng Trị (Lê Trọng Trải và cộng sự 1999). Sau đó còn ghi nhận thêm môt số cá thể khác tại tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, nhưng ghi nhận cuối cùng dừng lại ở năm 2000, khi một con trống được tịch thu từ một thợ săn và nuôi nhốt tại Hạt Kiểm lâm huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm 2009, ghi nhận một cá thể có thể là con mái Gà lôi lam mào trắng bắt được gần Đèo Hải Vân, nhưng về định loại chưa chắc chắn (A. Hennache trao đổi qua thư 2012).
Các mối đe dọa
Gà lôi lam mào trắng là một loài phân bố hẹp trong phạm vi Vùng chim đặc hữu đất thấp Trường Sơn (Annamese Lowlands EBA). Người ta tin rằng chúng là loài chuyên sống trong vùng rừng đất thấp, vì chưa có ghi nhận đáng tin cậy về loài này ở độ cao khoảng trên 300m. Nguyên nhân gốc rễ cho sự hiếm hoi của Gà lôi lam mào trắng được cho là săn bắn/bẫy đi kèm với việc sinh cảnh phù hợp của nó bị mất và phân mảnh nghiêm trọng (do tác động của con người, và có thể cả do biến đổi khí hậu).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Trứng của Gà lôi lam mào trắng nhỏ|Gà lôi lam mào trắng (con mái) **Gà lôi lam mào trắng** (danh pháp hai phần: **_Lophura edwardsi_**) là một loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae), đặc hữu
**Gà lôi lam mào đen** (danh pháp hai phần: **_Lophura_** × **_imperialis_**) là một loại gà lôi thuộc họ Trĩ, bộ Gà, có màu lam thẫm, cỡ trung bình, thân dài đến khoảng 75 cm, đầu
**Gà lôi lam đuôi trắng** (danh pháp khoa học: **_Lophura hatinhensis_**) là một loài gà lôi được phát hiện vào năm 1964 và đặt tên khoa học chính thức vào năm 1975. Gà lôi lam
**Gà lôi** (hay còn gọi là gà lôi đỏ) là một số chi trong họ **Phasianinae**, thuộc Họ Trĩ trong bộ Gà. Gà lôi có đặc điểm dị hình lưỡng tính mạnh mẽ, con trống
**Gà lôi trắng Trung Bộ** hay còn gọi là **Gà lôi vằn** (Danh pháp khoa học: _Lophura nycthemera annamensis_; Ogilvie Grant, 1906) là một phân loài của loài gà lôi trắng. Đây là loài chim
**Việt Nam** là một trong những quốc gia có sự đa dạng lớn về hệ **chim**. Chim Việt Nam là nhóm động vật được biết đến nhiều nhất, chúng dễ quan sát và nhận biết
: nhỏ|phải|Gà mái nhỏ|Gà con nhỏ|Gà trống **Gà** (danh pháp hai phần: _Gallus domesticus_) là một phân loài chim đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Một số ý kiến cho
Ở Việt Nam, theo phân tích của tổ chức BirdLife quốc tế năm 1998 đã xác định có ba vùng chim đặc hữu (EBA): Vùng đất thấp Trung Bộ, Cao nguyên Đà Lạt và Vùng
**Lophura** là một chi động vật trong họ Trĩ (_Phasianidae_). Chi này bao gồm 11 loài và một vài phân loài. Cùng với chi _Tragopan_ và một vài chi khác, chúng có tên gọi chung
**Khu dự trữ thiên nhiên Động Châu – Khe Nước Trong** nằm ở vùng sinh thái phía tây nam của tỉnh Quảng Bình, có hệ sinh thái rừng nhiệt đới với độ cao dưới 1.200
nhỏ|phải|Một con gà tây bảo tồn nhỏ|phải|Các giống gà tây đa dạng đang được bảo tồn **Gà tây bảo tồn** hay **Gà tây tiêu chuẩn** hay **Gà tây truyền thống** hay **Gà tây thuần chủng**,
**Gà lông trắng** hay **gà trắng** là thuật ngữ để phân loại các nhóm gà công nghiệp trong quá trình chăn nuôi gia cầm theo phương thức công nghiệp, theo đó chúng là tập hợp
**Danh mục sách đỏ động vật Việt Nam** bao gồm các loài động vật có trong Sách đỏ Việt Nam dưới các mức độ đe dọa khác nhau. Trong số đó là các loài động
**Gà tre Nam Kinh** (_Nankin bantam_) hay còn gọi đơn giản là **gà Nam Kinh** là một giống gà tre của Anh. Nó là một nòi gà Bantam thực thụ, một giống nhỏ tự nhiên
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
Bản lam căn là cây bụi hay cây nhỡ; các cành non tròn, phủ lông, sau nhẵn, vỏ màu nâu. Có lá hình bầu dục, mũi mác, đầu nhọn và thường có mũi, gốc tròn
right|thumb|[[Sao la (_Pseudoryx nghetinhensis_) phát hiện tại Việt Nam năm 1992]] **Hệ động thực vật hoang dã tại Việt Nam** có sự đa dạng sinh học độc đáo. Công tác bảo vệ bảo tồn và
**Gà Arbor Acres** hay còn gọi là **gà AA** là giống gà hướng thịt công nghiệp cao sản có nguồn gốc từ Mỹ. Chúng hình thành do phương pháp lai tạo 4 dòng. Arbor Acres
nhỏ|phải|Một con gà trụi lông **Gà trụi lông** (tiếng Anh: _Featherless chicken_ hay _Naked chicken_) là một biến thể gà được lai tạo có nguồn gốc từ Đại học Do Thái ở Israel. Đây là
**Gà tơ**, hay còn gọi là **gà non**, **gà giò** hoặc **gà mới lớn**, là những con gà đang trong giai đoạn trưởng thành nhưng chưa thuần thục (đối với gà trống thì chưa biết
**Gà cúng** hay còn gọi là _gà hiến tế_, _gà hiến sinh_, gà tế là các con gà, thường là gà trống dùng để hiến tế (cúng) cho ơn trên, thượng đế, các vị thánh,
nhỏ|phải|Một con gà lông đen **Gà lông đen**, hay còn gọi là **gà đen**, **ô kê** hoặc **hắc kê**, là các cá thể gà có màu lông chủ yếu màu đen tuyền và hơi có
**Con gà**, đặc biệt là **gà trống** hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó
**Gà rừng lông đỏ Java** hay còn gọi là **gà Bankiva** (Danh pháp khoa học: _Gallus gallus bankiva_) là một phân loài của loài gà rừng lông đỏ (Gallus gallus) phân bố ở đảo Java
nhỏ|phải|Gà cổ trụi ở Pháp **Gà cổ trụi** hay **gà cổ rắn** hay còn gọi là **gà Transylvania** là một giống gà có nguồn gốc từ Hungary. Ngày nay gà cổ rắn khá phổ biến
**Gà rừng Việt Nam** (danh pháp: _Gallus gallus jabouillei_) là một phân loài của loài gà rừng lông đỏ Gallus gallus). Ở Việt Nam phân loài gà rừng Gallus gallus jabouillei này, còn được gọi
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
nhỏ|phải|Một con gà nòi **Gà nòi** là một giống gà nội địa của Việt Nam được nuôi phục vụ cho những trận chọi gà. Gà nòi là giống gà thuộc nhóm gà trọc đầu. Giống
phải|nhỏ|Gà trống với những đặc điểm: [[Mào (động vật)|mào lớn, diều mọng]] **Gà trống**, đôi khi còn gọi là **gà sống** là gà giống đực của loài _Gallus gallus_, tức gà nhà. Con gà giống
**Gà tre** (chính xác là "gà che" theo tiếng Khmer là មាន់ចែ "moan-chae") là một giống gà bản địa đã từng khá phổ biến tại khu vực miền Nam Việt Nam, đặc biệt là Tây
nhỏ|phải|Một con Semara **Gà Serama** hay còn gọi là **gà tre Mã Lai**, **gà thượng lưu** hay **gà vương giả** hay **gà thành phố** là một giống gà có nguồn gốc từ Mã Lai và
**Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ** là một khu bảo tồn tại tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam. Khu bảo tồn này nằm trên địa bàn 3 huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Hương Khê (miền
**Gà cáy củm** hay còn gọi là **gà cúp** hay **gà không phao câu** là một giống gà bản địa có nguồn gốc ở miền Bắc Việt Nam. Chúng là giống gà đặc sản, được
nhỏ|phải|Gà Barnevelder mái **Gà Barnevelder** là giống gà nội địa của Hà Lan. Nó là kết quả của việc lai tạo giữa gà địa phương của Hà Lan và giống gà Thượng Hải khác nhau
**Người Tráng** hay **người Choang** (Chữ Tráng Chuẩn: Bouxcuengh, //; Chữ Nôm Tráng: 佈壯; Chữ Hán giản thể: 壮族, phồn thể: 壯族, bính âm: Zhuàngzú; Chữ Thái: ผู้จ้วง, _Phu Chuang_) là một nhóm dân tộc
nhỏ|phải|Một con bò bệnh thải loại ở Ấn Độ **Loại thải** (tiếng Anh: _Culling_) hay **Vật nuôi thải loại** chỉ việc tiêu hủy, loại bỏ đi những cá thể không mong muốn hoặc đã chết
Rose Serum – “Dưỡng da chuyên sâu 3in1”Serum là một sản phẩm không quá xa lạ với tác dụng giúp chăm sóc da chuyên sâu. Serum có kết cấu nhẹ hơn kem do nó được
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Công Ấn Độ** hay **Công lam** (danh pháp hai phần: **Pavo cristatus**), một loài chim lớn và màu sắc rực rỡ, là một loài chim công có nguồn gốc từ Nam Á, nhưng đã được
Ứng dụng công nghệ Vertorize cùng các tinh chất thiên nhiên độc đáo; kem trắng da trị nám Image Iluma Intense Brightening Creme có khả năng làm mờ nám sạm, thâm đen cho làn da
Ứng dụng công nghệ Vertorize cùng các tinh chất thiên nhiên độc đáo; kem trắng da trị nám Image Iluma Intense Brightening Creme có khả năng làm mờ nám sạm, thâm đen cho làn da
là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản đề tài chính kịch học đường ra mắt năm 2016, do xưởng phim Kyōto Animation sản xuất, Yamada Naoko đạo diễn và Yoshida Reiko chắp
**Bệnh cầu trùng gà** (_Emiriois_) là bệnh ký sinh trùng truyền nhiễm gây ra trên gà bởi nhóm nguyên sinh động vật _Protoza_, lớp _Sporozoa_, bộ _Coccidia_, họ _Eimeria_. Cầu trùng ký sinh ở manh