✨Enomoto Takeaki

Enomoto Takeaki

Tử tước là một Đô đốc Hải quân Nhật Bản trung thành với Mạc phủ Tokugawa, chiến đấu chống lại chính quyền Meiji cho đến khi kết thúc Chiến tranh Boshin, nhưng sau đó phục vụ cho chính quyền mới và là một trong những người tạo dựng nên Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

Tiểu sử

trái|Enomoto khoảng 19 tuổi, trước khi đến châu Âu

Tuổi trẻ

Enomoto sinh ra trong một gia đình samurai thuộc hạ của gia tộc Tokugawa ở quận Shitaya, Edo (ngày nay là Taito, Tokyo). Enomoto bắt đầu học tiếng Hà Lan vào những năm 1850, và sau khi Nhật Bản được Phó đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew Perry "mở cửa" năm 1854, ông học tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nagasaki của Mạc phủ Tokugawa và tại Trung tâm Huấn luyện Thuyền chiến Tsukiji ở Edo.

Ở tuổi 26, Enomoto được cử đến Hà Lan để học kỹ thuật phương Tây trong hải chiến và để tiếp thu kỹ thuật phương Tây. Ông ở lại châu Âu từ năm 1862 đến năm 1867, và dần nói trôi chảy tiếng Hà Lan và tiếng Anh.

Enomoto trở lại Nhật Bản trên tàu Kaiyō Maru, một tàu chiến hơi nước mua từ Hà Lan của Mạc phủ Tokugawa. Trong khi ở lại châu Âu, Enomoto đã nhận rằng điện tín sẽ là một phương tiện thông tin liên lạc quan trọng trong tương lai, và bắt đầu lên kế hoạch một hệ thống để nối Edo với Yokohama. Khi trở về, Enomoto được thăng làm , cấp bậc cao thứ hai trong hải quân Tokugawa, ở tuổi 31. Ông cũng nhận tước vị .

Minh Trị Duy Tân

Một phần của hạm đội Enomoto Takeaki ngoài khơi [[Shinagawa năm 1868. Từ phải sang trái: Kaiten, Kaiyō, Kanrin, ChōgeiMikaho. Cả BanryūChiyodagata đều vắng mặt]]

Dưới thời Minh Trị Duy tân, sau khi Edo đầu hàng năm 1868 trong chiến tranh Boshin trước lực lượng trung thành với chính quyền Meiji mới, Enomoto từ chối giao nộp các tàu chiến của mình, và chạy đến Hakodate ở Hokkaidō với những gì còn lại của Hải quân Tokugawa và một nhúm cố vấn quân sự Pháp và lãnh đạo của họ Jules Brunet. Hạm đội 8 tàu chiến hơi nước của ông là hạm đội mạnh nhất Nhật Bản vào thời điểm đó.

Enomoto hy vọng tạo ra một quốc gia độc lập dưới sự thống trị của gia đình Tokugawa ở Hokkaidō, nhưng triều đình Meiji từ chối chấp nhận sự chia cắt Nhật Bản. Ngày 25 tháng 12, những người trung thành với nhà Tokugawa tuyên bố sự ra đời của Cộng hòa Ezo và bầu Enomoto làm (tương tự như Tổng thống).

Năm sau đó, quân đội triều đình Meiji tiến đánh Hokkaidō và tiêu diệt quân đội của Enomoto trong trận Hải chiến Hakodate. Ngày 18 tháng 5 năm 1869, Cộng hòa Ezo sụp đổ, và Hokkaidō lại về nằm dưới sự cai trị của chính quyền trung ương do Thiên hoàng Meiji đứng đầu.

Chính trị gia thời Meiji

Sau khi ông đầu hàng, Enomoto bị bắt giữ, bị buộc tội phản quốc và tống giam. Tuy vậy, các lãnh đạo của chính quyền Meiji mới (phần lớn là nhờ sự khăng khăng của Kuroda Kiyotaka) ân xá cho Enomoto năm 1872, nhận ra rằng tài năng về nhiều mặt của ông có thể hữu dụng. Enomoto trở thành một trong số ít người trung thành với nhà Tokugawa chuyển sang phục vụ cho chính quyền mới, vì nền chính trị khi đó do một nhóm người từ phiên Chōshū và Satsuma thống trị, những người có thiên kiến mạnh mẽ với những người ngoài cuộc nói chung, và đặc biệt là với những thuộc hạ cũ của nhà Tokugawa. Tuy nhiên, Enomoto là một ngoại lệ, và đi lên rất nhanh trong phe nhóm thống trị, đến vị trí cao hơn mọi thành viên của chính quyền Tokugawa cũ.

nhỏ|Enomoto Takeaki trong những năm sau này Năm 1874, Enomoto được phong quân hàm Hải quân Trung tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản non trẻ. Năm sau đó, ông làm công sứ đặc biệt sang Đế quốc Nga để đàm phán Hiệp ước Saint Petersburg (1875). Kết quả thành công của hiệp ước rất được đón nhận ở Nhật Bản và làm tăng thêm uy tín của Enomoto trong nhóm cầm quyền, và việc Enomoto được chọn làm một sứ mệnh quan trọng như thế được xem là bằng chứng cho việc hòa giải giữa các kẻ thù cũ trong chính quyền.

Năm 1880, Enomoto trở thành . Năm 1885 khả năng ngoại giao của ông lại một lần nữa được dùng đến để trợ giúp Ito Hirobumi trong việc ký Điều ước Thiên Tân với nhà Thanh Trung Quốc. Sau đó, Enomoto giữ hàng loạt các vị trí cao trong chính quyền Nhật Bản. Ông là Bộ trưởng Thông tin đầu tiên của Nhật Bản (1885-1888) sau khi hệ thống nội các ra đời năm 1885. Ông cũng là Bộ trưởng Nông nghiệp và Thương mại năm 1888 và một lần nữa từ 1894 đến năm 1897, Bộ trưởng Giáo dục năm 1889-1890 và Bộ trưởng Ngoại giao năm 1891-1892.

Năm 1887, Enomoto được phong làm tử tước dưới hệ thống quý tộc kazoku, và được bầu làm thành viên của Xu mật viện.

Enomoto đặc biệt tích cực trong việc khuyến khích người Nhật di cư thông qua người định cư tại các thuộc địa trên Thái Bình Dương và Nam và Trung Mỹ. Năm 1891, ông thành lập – trái với ý nguyện của nội các Matsukata Masayoshi – một 'bộ phận về di cư' trong Bộ Ngoại giao, với nhiệm vụ khuyến khích di cư và tìm các lãnh thổ tiềm năng cho người Nhật định cư ở hải ngoại. 2 năm sau, sau khi rời khỏi chính quyền, Enomoto cũng giúp thành lập một tổ chức tư nhân, 'Hiệp hội Thuộc địa', để khuyến khích ngoại thương và di cư.

Enomoto qua đời năm 1908 ở tuổi 72. Mộ của ông hiện nằm tại chùa Cát Tường ở Tokyo.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tử tước** là một Đô đốc Hải quân Nhật Bản trung thành với Mạc phủ Tokugawa, chiến đấu chống lại chính quyền Meiji cho đến khi kết thúc Chiến tranh Boshin, nhưng sau đó phục
**** là một quốc gia độc lập tồn tại trong một thời gian ngắn do những cựu thần cùng quan chức của chính quyền Mạc phủ Tokugawa thành lập vào ngày 27 tháng 1 năm
diễn ra ở Nhật Bản từ 20 tháng 10 năm 1868 đến 17 tháng 5 năm 1869, giữa tàn quân Mạc phủ, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
là một sĩ quan Hải quân Tokugawa trong Chiến tranh Boshin, giữ chức vụ Thuyền trưởng tàu chiến Banryū trong Trận hải chiến Hakodate. ## Tiểu sử Bankichi chào đời tại xứ Izu, là con
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
**_Kaiyō Maru_** () là một trong những tàu chiến hiện đại đầu tiên của Nhật Bản, một tàu khu trục nhỏ chạy bằng buồm và động cơ hơi nước. Tàu được đóng ở Hà Lan,
diễn ra ngày 28 tháng 1 1868 trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản, ở vùng vịnh Awa gần Osaka. Các tàu tham gia vào trận đánh của Mạc phủ Tokugawa và các thuyền
thumb|Người thứ hai từ bên phải là Matsudaira Tarō. Những người khác gồm [[Ōzeki Masuhiro, Katsu Kaishū, Inaba Masami, Ishikawa Shigetaka, Robert B. Van Valkenburgh (Công sứ Mỹ), Ezure Akinori (Ngoại quốc phụng hành).]] là
**Jules Brunet** (2 tháng 1 năm 1838 – 12 tháng 8 năm 1911) là một sĩ quan quân đội Pháp nổi tiếng trong cuộc chiến tranh Boshin. Ông được gửi đến Nhật Bản với phái
**Bá tước ,** (9 tháng 11, 1840 - 23 tháng 8, 1900), còn được gọi là **Kuroda Ryōsuke** (黑田 了介, "Hắc Điền Liễu Giới"), là một chính trị gia Nhật Bản thời Meiji, và Thủ
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
diễn ra giữa quân đội bảo hoàng và Mạc phủ Tokugawa trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản. Trận đánh bắt đầu vào ngày 27 tháng 1 năm 1868 (3 tháng 1 âm lịch),
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
là một _samurai_ thời kỳ Bakumatsu. Được biết đến là vị Bộ trưởng Hải quân của Cộng hòa Ezo, về sau ông trở nên nổi tiếng với tư cách là Cục trưởng đầu tiên của
là một trong 23 khu đặc biệt của Tokyo. Tính đến năm 2010, khu có dân số ước tính 244.982 và mật độ 17.820 người/km². Tổng diện tích 13,75 km². ## Địa lý Sumida nằm ở
**Trận đèo Bonari** (tiếng Nhật:母成峠の戦い) là một phần của Chiến tranh Boshin, diễn ra vào ngày 6 tháng 10 năm 1868 (lịch Gregorian), hay ngày 21 tháng 8 (âm lịch). Đèo Bonari là con đường
**Trận Ueno** (tiếng Nhật:上野戦争) (Trận Thượng Dã) là một trận đánh trong Chiến tranh Boshin, diễn ra ngày 4 tháng 7 năm 1868 (15 tháng 5 âm lịch), giữa binh lính Shōgitai do Shibusawa Seiichirō
(sinh 26 tháng 11 năm 1852 - mất 8 tháng 12 năm 1933), còn được gọi là **Gonnohyōe**, là một đô đốc trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản và là thủ tướng thứ 16
, tên trước đây **Ezo**, **Yezo**, **Yeso**, **Yesso** là đảo lớn thứ hai của Nhật Bản. Về mặt hành chính, Hokkaido đóng vai trò như một vùng địa phương kiêm tỉnh đạo lớn nhất Nhật
**Võ sĩ đạo cuối cùng** hay **Võ sĩ Samurai cuối cùng** (tựa tiếng Anh: **The Last Samurai**) là một bộ phim lịch sử - chiến tranh Mỹ được sản xuất năm 2003. Bộ phim lấy
, trước đây gọi là (石 川島 播 磨 重工業 株式会社 , _Ishikawajima Harima Jūkōgyō Kabushiki-gaisha_), là một công ty Nhật Bản chuyên sản xuất tàu, động cơ máy bay, bộ
thumb|right|Dejima và Vịnh Nagasaki, khoảng năm 1820. Hai tàu của Hà Lan và rất nhiều thuyền của Trung Quốc được miêu tả. thumb|right|Quang cảnh đảo Dejima nhìn từ Vịnh Nagasaki (Kawahara Keiga, 1836) thumb|Philipp Franz
phải|nhỏ|300x300px|Tòa nhà Bộ Hải quân, Tokyo, vào khoảng năm 1890 **Bộ Hải quân** (海軍省 _Kaigun-shō_