✨Kaiyō Maru (tàu chiến Nhật)

Kaiyō Maru (tàu chiến Nhật)

Kaiyō Maru () là một trong những tàu chiến hiện đại đầu tiên của Nhật Bản, một tàu khu trục nhỏ chạy bằng buồm và động cơ hơi nước. Tàu được đóng ở Hà Lan, và phục vụ trong Chiến tranh Boshin, tàu là một phần của hải quân Mạc phủ Tokugawa, và sau đó thuộc hải quân Cộng hòa Ezo. Tàu bị đắm vào ngày 15 tháng 11 năm 1868, ngoài khơi Esashi, Hokkaido, Nhật Bản.

Thiết kế và đóng tàu

thumb|Ra mắt Kaiyō Maru tại [[Dordrecht vào năm 1865]]

Kaiyō Maru được đặt hàng vào năm 1863, và được xây dựng bởi Cornelis Gips và Sons, tại Dordrecht, Hà Lan, với giá 831.200 guilder. Đóng tàu được giám sát bởi quân đội Nhật Bản dưới thời Uchida Masao và Akamatsu Noriyoshi. Tàu được ra mắt vào tháng 10 năm 1866, và đến Nhật Bản vào tháng 11 cùng năm. Đây là tàu chiến gỗ lớn nhất từng được đóng bởi một nhà máy đóng tàu của Hà Lan vào thời điểm đó. Tàu dài 240 feet (73 m).

Lịch sử hoạt động

thumb|Một phần của hạm đội Enomoto Takeaki ngoài khơi Shinagawa vào năm 1868. Kaiyō Maru thứ hai từ phải sang. thumb|Bản sao của Kaiyō Maru tại [[Esashi, Hokkaidō (Hiyama)|Esashi]]

Vào tháng 1 năm 1868, Kaiyō Maru đã tham gia vào trận hải chiến Awa ngoài khơi đảo Awaji, nơi nó cùng các tàu khác là Banryū MaruHazuru Maru chiến đấu chống lại các tàu đối phương của Phiên Satsuma là Kasuga Maru, Hōō MaruHeiun Maru. Trong trận chiến, Hōō Maru bị đánh chìm.

Vào cuối tháng 1 năm 1868, Kaiyō Maru, Kanrin Maru, Hōō Maru và năm chiếc tàu hiện đại khác đã chạy trốn tới Hokkaido, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Enomoto Takeaki. Tàu mang theo một số cố vấn quân sự Pháp, và nhà lãnh đạo của họ, Jules Brunet. Khi ở Hokkaido, tàu trở thành một phần của hải quân Cộng hòa Ezo (nhà nước tồn tại trong thời gian ngắn, được thành lập bởi Enomoto Takeaki). Kaiyō Maru trở thành soái hạm của hải quân Cộng hòa Ezo, nhưng nó sớm bị đánh đắm ở Esashi, Hokkaido, Nhật Bản, trong một cơn bão vào ngày 15 tháng 11 năm 1868.

Trục vớt

Súng và khung tàu của Kaiyo Maru đã được phát hiện ở đáy biển vào 14 tháng 8 năm 1968 bởi tàu ngầm Yomiuri-go (読売号). Nhưng khó khăn tài chính dự án đã ngăn chặn việc trục vớt vào thời điểm đó, tuy nhiên một số vật phẩm đã được trục vớt vào năm 1969. Cuộc lặn được tiến hành vào tháng 8 năm 1974 đã xác nhận rằng cần phải trục vớt phần còn lại. Cuộc khai quật toàn bộ xác tàu từ độ sâu 15 m (49 ft) bắt đầu vào tháng 6 năm 1975. Việc trục vớt các phần của xác tàu trong vùng biển mở được hoàn thành trong bảy năm. Các phần của xác tàu nằm gần bờ thì việc trục vớt bị chậm lại do tầm nhìn kém. Chi phí cho việc trục vớt tổng cộng hơn 3 triệu yên vào năm 1985. Quá trình khử muối các cổ vật được phục hồi bắt đầu khi trục vớt. Một bản sao của Kaiyō Maru được đóng vào năm 1990. Hiện nó đang được trưng bày tại bến cảng ở Esashi và đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch cho thấy hình ảnh của con tàu nguyên bản.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Kaiyō Maru_** () là một trong những tàu chiến hiện đại đầu tiên của Nhật Bản, một tàu khu trục nhỏ chạy bằng buồm và động cơ hơi nước. Tàu được đóng ở Hà Lan,
**_Kasuga Maru_** (春日丸) là một tàu chiến gỗ chạy bằng động cơ hơi nước của Nhật Bản thời Bakumatsu và đầu thời kỳ Minh Trị, phục vụ hải quân Phiên Satsuma, và sau đó là
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
diễn ra từ 4 tháng 5-10 1869, giữa tàn quân của hải quân Mạc phủ Tokugawa, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và Hải quân Đế quốc Nhật Bản
diễn ra ngày 28 tháng 1 1868 trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản, ở vùng vịnh Awa gần Osaka. Các tàu tham gia vào trận đánh của Mạc phủ Tokugawa và các thuyền
**_Kaiyō_** () là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Thiết kế và chế tạo Chiếc tàu được hạ
**Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản** hay **Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản** ( là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
diễn ra ở Nhật Bản từ 20 tháng 10 năm 1868 đến 17 tháng 5 năm 1869, giữa tàn quân Mạc phủ, củng cố thành lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa Ezo, và
diễn ra giữa quân đội bảo hoàng và Mạc phủ Tokugawa trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản. Trận đánh bắt đầu vào ngày 27 tháng 1 năm 1868 (3 tháng 1 âm lịch),
**Tử tước** là một Đô đốc Hải quân Nhật Bản trung thành với Mạc phủ Tokugawa, chiến đấu chống lại chính quyền Meiji cho đến khi kết thúc Chiến tranh Boshin, nhưng sau đó phục
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ