✨Edward Drinker Cope

Edward Drinker Cope

Edward Drinker Cope (28 tháng 7 năm 1840 – 12 tháng 4 năm 1897) là một nhà cổ sinh học Mỹ và là nhà giải phẫu học đối sánh, ngoài ra ông còn là nhà bò sát học và ngư học. Ông là người sáng lập trường phái tư tưởng Neo-Lamarckism. Sinh ra trong một gia đình giàu có Quaker, Cope đã nhận ra là một thần đồng đam mê khoa học; Ông xuất bản bài báo khoa học đầu tiên lúc 19 tuổi. Dù cha ông cố gắng đào tạo Edward thành một người làm nông, nhưng cuối cùng ông phải chấp nhận nguyện vọng làm khoa học của con mình. Cope cưới lấy em họ và có một con; gia đình ông đã dời từ Philadelphia đến Haddonfield, New Jersey, mặc dù Cope muốn ở và lập bảo tàng ở Philadelphia vào những năm cuối đời.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

Edward Drinker Cope sinh ra vào ngày 28 tháng 7 năm 1840. Ông là con trai cả của Alfred Cope và Anna Cope. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ và sự ra đi của người mẹ có vẻ ảnh hưởng đôi chút đến cậu bé Edward. Trong các bức thư , Edward có nói rằng cậu chẳng có ký ức gì về người mẹ của mình. Chính vì sự ra đi này, người vợ hai của bố Edward, Rebecca Biddle, trở thành người mẹ của câu bé này. Edward sống nhờ vào hơi ấm của người mẹ này, cũng như người anh em cùng cha khác mẹ James Biddle Cope. Cha của Edward, Alfred, là một thành viên chính thống của Quakers. Ông điều khiển một quá trình buôn bán tàu thủy có lợi được khởi động bởi người cha của ông, ông Thomas P. Cope, vào năm 1821. Alfred cũng là một người nhân đức khi ủng hộ tiền cho Quakers, Vườn bách thú Philadelphia và Đại học Cheyney ở Pennsylvania.

Edward Drinker Cope được sinh ra và lớn lên trong một ngôi nhà đá lớn có tên là "Fairfield", nơi có vị trí bây giờ là gần ranh giới của Philadelphia. Với diện tích 8 mẫu Anh-acres (tương ứng với 3,2 ha), khu vườn có tính chất cổ xưa và kỳ lạ nơi Edward ở thực sự đã khiến cho cậu bé muốn khám phá. Gia đình nhà Cope đã dạy dỗ những đứa trẻ học đọc và viết. Ngoài ra, cậu bé Edward còn được đi tham quan vùng đất New England và quan trọng hơn là bảo tàng, vườn thú và công viên. Tất cả những điều đó đã khiến cậu bé nhà Cope quan tâm đến thiên nhiên, đặc biệt là động vật cũng như phát huy năng lực thẩm mỹ vốn có của bản thân.

Chuyến đi châu Âu

Trong các năm 1863 – 1864, tức là trong thời kỳ nội chiến Hoa Kỳ, Cope thực hiện một chuyến đi vòng quanh châu Âu, đến thăm những bảo tàng và con người được kính trọng nhất. Ở đây, lúc đầu ông cảm thấy thích thú với công việc phục vụ một bệnh viện dã chiếnm nhưng theo những bức thư ông gửi về cho cha mình, ta có thể thấy niềm hứng thú này dần biến mất. Thay vào đó, Cope muốn trở về nước Mỹ, làm việc tại phia nam để giúp đỡ những người Mỹ gốc Phi được tự do. Một người có tên Davidson muốn nhờ Joseph Leidy và Ferdinand Hayden (người làm việc như một bác sĩ phẫu thuật dã chiến trong thời kỳ nội chiến) nói lên sự khủng khiếp của công việc cho Cope nếu như ông thực hiện ý định đó. Và Cope tiếp tục ở lại châu Âu. Và chính vào lúc đó, ông có tình cảm với một người phụ nữ vô danh (ông có ý định cưới người này làm vợ). Khi biết chuyện này, cha của Edward Cope đã không chấp nhận và cuộc tình đã chấm dứt. Dù là Cope hay người phụ nữ kia quyết định chia tay trước thì cái kết của mối tình này đã khiến cho nhà cổ sinh vật học tương lai bị trầm cảm trong một thời gian. Ông đã không ít lần than phiền sự nhàm chán khi sống ở đây.

Mặc dù ở trạng thái như vậy, nhà khoa học tương lai của Mỹ vẫn ở lại châu Âu, gặp gỡ những nhà khoa học đáng kính nhất lúc bấy giờ. Chuyến đi của ông qua rất nhiều nơi như Pháp, Đức, Vương quốc Anh, Ireland, Áo, Ý và các nước thuộc khu vực Đông Âu. Có thể Cope đến những nơi này là bởi những bức thư mời của Leidy và Spencer Baird. vào mùa đông năm 1863, Cope gặp một người quan trọng với cuộc đời của ông, Othniel Charles Marsh, người mà sau này trước là bạn, sau là kẻ thù của ông.

Qua đời

Năm 1896, Cope bắt đầu cảm thất đau đớn ở vùng ruột-dạ dày. Ông cho rằng đó là viêm bóng đái. Người vợ chăm sóc hết mức có thể khi họ ở Philadelphia. Thậm chí trong nhiều lần, hiệu trưởng của trường đại học nơi Cope làm việc, Anna Brown, đến để phục vụ ông. Trong khoảng thời gian ấy, Cope phải sống trong bảo tàng phố Pine do ông sở hữu và được vây kín bởi một cái lều được dựng lên bởi chính những khúc xương hóa thạch của ông. Ông thường kê cho mình nhiều loại thuốc, bao gồm lượng lớn morphine, belladonna và formalin. Một người đồng nghiệp tên Henry Fairfield Osborn cảm thấy khiếp sợ vì những hành vi của Cope do bệnh tật và đã sắp xếp một cuộc phẫu thuật. Tuy nhiên, cuộc phẫu thuật đành gác lại bởi sức khỏe của Cope đã tốt trở lại. Tuy nhiên, khi đến Virginia, Cope lại bị bệnh và phải trở về nhà trong thể trạng rất yếu. Osborn đến thăm nhà cổ sinh vật học vào ngày 5 tháng 4 năm ấy, tìm hiểu về sức khỏe của ông, và Cope đã cho biết suy nghĩ của ông về nguồn gốc của căn bệnh. Thông tin Cope bị bệnh được truyền đi nhiều nơi và ông được đến thăm bởi những người bạn và đồng nghiệp. Cope qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1897, tức là chỉ còn cách 16 tuần nữa là sinh nhật thứ 57 của ông.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Edward Drinker Cope** (28 tháng 7 năm 1840 – 12 tháng 4 năm 1897) là một nhà cổ sinh học Mỹ và là nhà giải phẫu học đối sánh, ngoài ra ông còn là nhà
**Quy tắc Cope** là quy tắc sinh học được đặt theo tên của nhà cổ sinh vật học người Mỹ Edward Drinker Cope người đã đưa ra giả thuyết rằng các dòng dõi quần thể
**_Elasmosaurus_** là một chi thằn lằn cổ rắn, được Cope mô tả khoa học năm 1868., đã sinh sống ở Bắc Mỹ trong giai đoạn Campania Creta muộn, khoảng 80,5 triệu năm trước. Mẫu vật
**_Stegosaurus_** (phát âm tiếng Anh: ; ) là một chi khủng long phiến sừng thuộc cận bộ Stegosauria, sống từ Jura muộn (giai đoạn Kimmeridgia đến tiền Tithonia) ở miền Tây Bắc Mỹ ngày nay.
**Othniel Charles Marsh** (1831 – 1899) là nhà cổ sinh vật học người Mỹ. Ông là đối thủ của Edward Drinker Cope. ## Cuộc đối đầu không nhân nhượng Othniel Charles Marsh và Edward Drinker
**_Taeniolabis_** là một loài động vật có vú trong họ thú Multituberculata đã tuyệt chủng từ thế Paleocen ở Bắc Mỹ. Đây là loài thú lớn nhất được biết đến trong nhóm loài Multituberculata đã
**_Amphicoelias_** (, là một từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "hai mặt lõm", αμφι, _amphi_: " ở hai bên", và κοιλος, _koilos_: "rỗng, lõm"; tạm dịch là: _Khủng long hai khoang
**_Albertosaurus_** (; có nghĩa là "Thằn lằn Alberta") là một chi Theropoda lớn thuộc họ Tyrannosauridae sống ở Bắc Mỹ ngày nay vào cuối kỷ Phấn Trắng muộn, khoảng 70 triệu năm trước. Loài điển
**Cá nhám mang xếp** (tên khoa học **_Chlamydoselachus anguineus_**) là một loài cá mập thuộc chi _Chlamydoselachus_, họ _Chlamydoselachidae_. Đây là loài cá sống chủ yếu ở vùng biển sâu (trên 1.500 mét), phân bố
**Nimravidae** là một họ thú có vú ăn thịt đã tuyệt chủng từng sống ở Bắc Mỹ và lục địa Á-Âu. Tuy không phải "mèo thực sự" (họ Felidae), Nimravidae vẫn có quan hệ gần
**_Moxostoma robustum_**, tên thông thường trong tiếng Anh là **robust redhorse**, là một loài cá nước ngọt thuộc chi _Moxostoma_ trong họ Cá mút. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1870.
Hóa thạch một con sinh vật cổ, thuộc chi [[Marrella]] **Cổ sinh vật học** là một ngành khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của sự sống trên Trái Đất, về các loài động
**_Smilodon_** là một chi của phân họ Machairodont đã tuyệt chủng thuộc Họ Mèo. Chúng là một trong những động vật có vú thời tiền sử nổi tiếng nhất và loài mèo răng kiếm được
**_Diplodocus_** (, , nhằm chỉ đến cặp xương chữ V giống dầm đỡ ở mặt dưới cái đuôi, khi đó được coi là khá độc đáo. _Diplodocus_ thuộc hàng những chi khủng long dễ nhận
**Stegocephalia** là một thuật ngữ cũ để chỉ các động vật lưỡng cư tiền sử (nói chung là lớn), bao gồm tất cả các động vật lưỡng cư lớn sinh sống trước kỷ Jura và
**_Orconectes_** là một chi tôm sông, bản địa đông Hoa Kỳ. Nó bao gồm loài rusty crayfish, một loài vật xâm lấn ở Bắc Mỹ, và _Orconectes limosus_, một loài xâm lăng ở châu Âu.
**_Polycotylus_** là một chi xà đầu long trong họ Polycotylidae . Loài tiêu biểu là P. latippinis và được đặt tên bởi nhà cổ sinh vật học Mỹ Edward Drinker Cope vào năm 1869. Mười
**1840** (số La Mã: **MDCCCXL**) là một năm nhuận bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory. ## Sự kiện ### Tháng 6 * 28 tháng 6 – Chiến tranh Nha phiến lần thứ 1
**_Bruhathkayosaurus_** (; có nghĩa là "thằn lằn rất lớn") có thể là loài khủng long lớn nhất từng sống trên trái đất. Tuy nhiên, tính chính xác của tuyên bố này đã bị sa lầy
**Thương long** (Danh pháp khoa học: **_Mosasauridae_**) là một họ bò sát biển lớn đã tuyệt chủng. Các hóa thạch đầu tiên được phát hiện trong mỏ đá vôi ở Maastricht, Meuse năm 1764. Mosasauridae
**_Oestocephalus_** là một chi động vật lưỡng cư lepospondyli tuyệt chủng sống vào kỷ Cacbon. Hóa thạch của nó được tìm thấy tại Cộng hòa Séc cũng như Ohio và Illinois ở Mỹ. Đây là
**_Edaphosaurus_** ( /ˌɛ d ə f oʊ s ɔːr ə s /, có nghĩa là "thằn lằn vỉa hè") là một chi của edaphosaurid synapsids sống ở những khu vực nay là Bắc Mỹ và
**_Corydoras acutus_**, tên thường gọi là **cá chuột vây đen**, là một loài cá da trơn nước ngọt nhiệt đới thuộc chi _Corydoras_ trong họ _Callichthyidae_. Loài này được tìm thấy ở lưu vực sông
**_Pneumatoarthrus_** là một chi rùa biển kỷ Creta ban đầu được Edward Drinker Cope mô tả như một khủng long hadrosauria năm 1870.
**_Najash rionegrina_** là một loài rắn đã tuyệt chủng từ thành hệ Candeleros Creta muộn của Patagonia. Giống như một số loài rắn kỷ Creta và đang tồn tại khác, loài này giữ lại chi