✨Đường luật

Đường luật

Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ tại chính quê hương của nó và lan tỏa ra nhiều quốc gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.

Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn theo các quy tắc này.

Thơ Đường luật tại một số quốc gia

Việt Nam

Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt.

Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.

Nhật Bản

Khoảng thế kỷ thứ 5 chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593 thái tử Shotoku (Thượng Đức) nhiếp chính, đã ban hiến pháp "Thập thất điều", gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường du học. Năm 710 Nữ hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794 Thiên hoàng Kammu thiên đô về Heian và lập kinh đô (Heian-kyo, Bình An Kinh). Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và thành Lạc Dương triều Bắc Ngụy) đến nghi thức, văn hóa, và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Nôm trở thành văn học của công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.

Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu biểu từ hoàng đế, thành viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc tịch Nhật. Sáng tác đa phần được thực hiện từ thế kỷ 7 và 8, và hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, bát cú.

Luật

Điều căn bản của luật thơ Đường luật là đối, đó là hai nguyên tắc đối âm và đối ý, nghĩa là lần lượt những chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu trên phải đối với các chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3,... của câu dưới cả về âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy ước nhất tam ngũ bất luật (chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật), nhị tứ lục phân minh (chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu cần phải theo luật).

Đối âm (Luật bằng trắc)

Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu (thanh ngang); thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng. Có người chia thành sáu thanh trắc trong đó dấu sắc (') và dấu nặng (.) chia thành mỗi tiếng có hai thanh trắc nhập và trắc khứ.

Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, đồng thời chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường luật mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".

Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.

Luật bằng trắc trong thể thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng chữ "B", vần trắc bằng chữ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:

  1. Luật Vần bằng
  • Thất ngôn tứ tuyệt
  • Thất ngôn bát cú
  1. Luật vần trắc
  • Thất ngôn tứ tuyệt

::Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát): :::Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều :::Trăng tà chiếc quạ kêu sương :::Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ :::Thuyền ai đậu bến Cô Tô :::Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

  • Thất ngôn bát cú : Chú thích: (1): Thơ cổ có câu "Phong vũ dạ hoài nhân". Ý Tú Xương ở đây là không cần phải ở trong đêm mưa gió vẫn dậy lên nỗi nhớ về nhau.

Đối ý

Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".

Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

:Lom khom dưới núi tiều vài chú :Lác đác bên sông rợ mấy nhà,

"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "rợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.

Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý)

Niêm

Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì trong cả hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".

Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:

::Câu 1 niêm với câu 8 ::Câu 2 niêm với câu 3 ::Câu 4 niêm với câu 5 ::Câu 6 niêm với câu 7 :Còn đối với Nguyên tắc niêm ở thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 1.

Chẳng hạn với luật vần bằng: ::#- B - T - B B ::#- T - B - T B ::#- T - B - T T ::#- B - T - B B ::#- B - T - B T ::#- T - B - T B ::#- T - B - T T ::#- B - T - B B

Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3: :Cỏ cây chen đá lá chen hoa :Lom khom dưới núi tiều vài chú

Vần

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường luật mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vần".

Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường luật dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.

Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: :Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà :Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

Bố cục

Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp". Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao

Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.

Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu Việt Nam vẫn đi theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận Đường luật.

Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.

Cũng cần nhắc đến quan điểm "Cảnh-Tình" của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.

Một số dạng thơ Đường khác

Thất ngôn bát cú

Nguồn gốc thể thơ

Thơ thất ngôn bát cú thật ra là loại cổ thi xuất hiện rất sớm bên Trung Quốc, đến đời Đường mới được các nhà thơ đặt lại các quy tắc cho cụ thể, rõ ràng và từ đó phát triển mạnh mẽ. Đây là loại thơ mà mỗi bài thơ thường có tám câu, mỗi câu 7 chữ, tuân theo các quy tắc hết sức chặt chẽ:

Các quy tắc

Dàn ý: Thông thường chia làm 4 phần: #Đề (câu 1 – 2): Câu thứ nhất là câu phá đề (mở ý cho đầu bài). Câu thứ hai là câu thừa đề (tiếp ý của phá đề để chuyển vào thân bài); Thực (câu 3 – 4): Còn gọi là cặp trạng, nhiệm vụ giải thích rõ ý chính của đầu bài;;Luận (câu 5 – 6): Phát triển rộng ý đề bài; Kết (hai câu cuối): Kết thúc ý toàn bài.

Vần: Thường được gieo ở cuối câu 1, 2, 4, 6, 8.

Ngắt nhịp: thường ngắt nhịp 2/2/3; 4/3.

Đối: Có 2 cặp đối: Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6, đối ở 3 mặt: đối thanh, đối từ loại và đối nghĩa. Nghĩa có thể đối một trong hai ý: đối tương hỗ hay đối tương phản.

Niêm: Câu 1 niêm với câu 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7, tạo âm điệu và sự gắn kết giữa các câu thơ với nhau.

Luật bằng trắc: thường căn cứ vào tiếng thứ hai trong câu một. Nếu tiếng thứ hai là thanh bằng ta nói bài thơ ấy viết theo luật bằng; nếu tiếng thứ hai là thanh trắc ta nói bài thơ viết theo luật trắc. Luật bằng trắc trong từng câu quy định: Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh.

Chẳng hạn bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu viết theo luật bằng

Câu 1: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

__B T__ B___B

Câu 2: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù,

___T __B ____T_B

Câu 3: Đã khách không nhà trong bốn biển,

__T__BT__T

Câu 4: Lại người có tội giữa năm châu.

___B ___T B___B

Bài thơ viết Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan theo luật trắc:

Câu 1: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

_T__ B _T__B

Câu 2: Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

_____B

__T _BB

Câu 3: Lom khom dưới núi, tiều vài chú

____B T ___BT

Câu 4: Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.

___T _B __T___B

Các biến thể của thể thơ

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biến thể mới của thể thơ Đường luật như: *Tiệt hạ: ý, lời mỗi câu thơ đều lơ lửng tuỳ người đọc suy nghĩ.

::Ví dụ: Giải cờ thế ::Gặp thế cờ hay muốn phá thì... ::'Điều quân khiển tướng chẳng qua vì... ::Trùng trùng trận cuộc song nhìn lại... ::Điệp điệp quan binh nhưng nghĩ đi... ::Ý chậm chí bền nên có lúc... ::Trí nhanh nước sáng vẫn đôi khi... ::Thú vui nhàn nhã dường như lắm... ::Mất ngủ mà sao thật lạ kỳ... ::: (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

*Yết hậu*: thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ. Thủ vĩ ngâm**: câu tám lập lại y hệt câu một. *Vĩ tam thanh: cuối mỗi câu có từ láy ba

:: Ví dụ: Luyện cờ ::Suốt ngày ôm sách cửa cừa cưa ::Thua mấy thì thua chứa chửa chừa ::Kỹ quá nên đành sương sướng sượng ::Sơ nhiều chả trách đửa đừa đưa ::Thế hòa sao cứ đàu đau đáu ::Nước thắng can chi bứa bửa bừa ::Cứ gắng, việc đời nan nán nản' ::Biết bao gương sáng xửa xừa xưa ::: (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Đánh giá

Tuy thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật phải tuân thủ theo những nguyên tắc chặt chẽ khó có thể làm được những bài thơ hay. Tuy nhiên nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,... đã sử dụng thể thơ Đường luật đã để lại nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện.

Thất ngôn tứ tuyệt

Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi hai câu đầu hoặc hai câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.

Ngũ ngôn tứ tuyệt

Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.

Ví dụ: từ bài trên mà thành :Thuyền đưa khách thuận dằm :Bến cũ biệt mù tăm :Chiếc lá bay theo gió :Tình xưa ghé đến thăm :* :Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói :Trong lúc sương tàn dế im hơi :Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng :Mong nhớ một ngày biệt mù tăm

Ngũ ngôn bát cú

Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

Yết hậu

Yết Hậu (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.

Ví dụ: bài Lươn :Cứ nghĩ rằng mình ngắn, :Ai ngờ cũng dài đường. :Thế mà còn chê trạch: :Lươn! :::Vô Danh

Ví dụ: Cha con đánh cờ :Ánh nắng vừa nghiêng ngọn trúc già :Cha con vui vẻ bày cờ ra :Đồng xanh gió mát trà thơm ngát :- Ha! : :Không - Một! Xưa nay ai chả lầm :- Ván này...Thôi! Hết! Chốt xuyên tâm :Lâng lâng quý tử ngâm thơ luật :R...ầ...m! : :Trước ngõ chỏng chơ tướng sĩ bồ :Ngoài sân cao thủ khóc nhi nhô :- Nín ngay! sắp lại cho tao gỡ! :''- Dzô! : :Nắng đã khuất dần phía núi xa :Cơm canh lên khói đợi trong nhà :Dưới thềm xe ngựa còn rầm rộ :''- Chà! :::Trường Văn Nguyễn Phước Thắng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thơ Đường luật** hay **Thơ luật Đường** là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ
Khóa Bồi Dưỡng Luật Sư – Kỹ Năng Thi Hành Quyết Định Trong Tố Tụng Trọng Tài và Phán Quyết Trọng Tài giúp luật sư nâng cao kiến thức và kỹ năng thực tiễn trong
**_Bộ luật Hồng Đức_** là tên gọi thông dụng của bộ **_Quốc triều hình luật_** hay **_Lê triều hình luật_**, là bộ luật chính thức của nhà nước Đại Việt thời Lê sơ hiện còn
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
Thơ **Hàn luật** là thơ Đường luật dùng áp dụng cho văn Nôm ở Việt Nam. Hai thể thông dụng nhất là "thất ngôn tứ tuyệt" và "thất ngôn bát cú". Tương truyền thể thơ
thumb|right|Nam Đại Dương theo mô tả trong dự thảo ấn bản thứ tư tài liệu _Giới hạn của biển và đại dương_ của [[Tổ chức Thủy văn Quốc tế (2002)]] thumb|right|[[Đới hội tụ Nam Cực
**Thơ bài luật** là một dạng kéo dài của thơ _Đường luật_ ở Trung Quốc, trong đó sự đối ngẫu có trong sáu câu trở lên, cả bài gồm mười câu trở lên, theo tập
**Gia Luật Bội** (, 899 – 7 tháng 1 năm 937), cũng được biết đến với tên **Gia Luật Đột Dục** (耶律突欲) hay **Gia Luật Đồ Dục** (耶律圖欲), hiệu **Nhân Hoàng vương** (人皇王), và sau
Trong các ngày 22, 23/02/2025, Đoàn Luật sư TP. Cần Thơ tiến hành tổ chức thành công Đại hội Đại biểu nhiệm kỳ X (2024-2029).Quang cảnh Đại hội Đại hội có sự tham dự của
phải trải qua không ít thăng trầm, nhưng các Luật sư, dù là người Việt hay người nước ngoài, vẫn luôn để lại những dấu ấn đặc biệt khi tham gia hành nghề dưới các
**Cục Đường bộ Việt Nam** (tiếng Anh: _Department for Roads of Viet Nam_, viết tắt là **DRVN**) là tổ chức trực thuộc Bộ Xây dựng, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ
**Chế định trách nhiệm dân sự** trong Luật Hồng Đức là tổng thể các quy định của Luật Hồng Đức (Hay còn được gọi là Quốc Triều Hình Luật) quy định các vấn đề liên
**Trần Ngọc Đường** (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1945) là một giáo sư, tiến sĩ luật, chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Việt
**Bộ Luật Napoleon** (tiếng Pháp: **_Code Napoléon_**; chính thức là **Code civil des Français**, gọi là **(le) Code civil**) là bộ dân luật Pháp ban hành năm 1804 trong thời Tam Đầu Chế Pháp. Bộ
**Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển** (tiếng Anh: _United Nations Convention on Law of the Sea_ - UNCLOS), cũng gọi là **Công ước Luật biển** hay cũng được những người chống đối nó
**Pháp luật** là một tập hợp các quy tắc được tạo ra và có thể thi hành bởi các cơ sở xã hội hoặc chính phủ để điều chỉnh hành vi, với định nghĩa chính
**Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004** là đạo luật được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng
Bài này tuy liên quan đến Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng chỉ tập trung nói về mặt ứng dụng của nó trong thực tế, đứng trên góc nhìn pháp lý. Hệ thống luật pháp ở
**Trường Đại học Luật Hà Nội** là trường đại học công lập đào tạo luật pháp hàng đầu của Việt Nam, trực thuộc Bộ Tư pháp và chịu sự quản lý nhà nước về giáo
**Hội Luật gia Việt Nam** là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở Việt Nam, tổ chức thống nhất, tự nguyện của các luật gia trong cả nước. Hội Luật gia
**Đạo luật Một Hoá đơn Tuyệt đẹp Khổng lồ** (chữ Anh: _One Big Beautiful Bill Act_, viết tắt: OBBBA), hoặc gọi **Đạo luật To Đẹp**, **Đạo luật OBBB**, là một dự luật điều chỉnh ngân
**Luật Hòa giải ở cơ sở 2013** (số ký hiệu: ) là văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc xã hội hóa quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm
**Luật Người khuyết tật 2010** (số ký hiệu: , tên quốc tế: _2010 Law on Persons with Disabilities_) là văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực người khuyết tật của Việt
**Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton** thường được phát biểu rằng mọi hạt đều hút mọi hạt khác trong vũ trụ với một lực tỷ lệ thuận với tích khối lượng của chúng
**Pháp luật quốc tế** là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở
**Gia Luật Lý Hồ** (耶律李胡, 911 – 960), nhất danh **Hồng Cổ** (洪古), tự **Hề Ẩn** (奚隱), là một thân vương của triều Liêu. Ông là hoàng tử thứ ba của hoàng đế khai quốc
**Vụ xét xử các lãnh đạo Đảng Cộng sản theo Đạo luật Smith** ở thành phố New York từ năm 1949 đến năm 1958 là kết quả các cuộc truy tố của chính quyền liên
**Trường Đại học Kinh tế – Luật** ( – **UEL**) là trường đại học đào tạo và nghiên cứu khối ngành kinh tế, kinh doanh và luật hàng đầu Việt Nam nói chung và tại
Một bức tượng của Gia Luật Sở Tài tại công viên Guta ở [[Cẩm Châu, Liêu Ninh]] **Gia Luật Sở Tài** (Chữ Hán: 耶律楚材, 1190 – 1244), tự **Tấn Khanh** (晉卿), hiệu **Trạm Nhiên cư
Theo điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, tùy theo từng đối tượng mà có các hình thức kỉ luật khác nhau. Đối với tổ chức Đảng các hình thức kỷ luật gồm có **khiển
**Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015** (số ký hiệu: ) là đạo luật được ban hành năm 2015 bởi Quốc hội Việt Nam khóa XIII quy định về đơn vị hành chính và
, viết tắt là , là luật chính thức quy định quốc kỳ và quốc ca của Nhật Bản. Trước khi luật được công bố vào ngày 13 tháng 8 năm 1999, Nhật Bản về
**Luật Jim Crow** là hệ thống luật lệ áp đặt chế độ phân chia chủng tộc của các tiểu bang và địa phương ở miền Nam Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu
**Quyết định thiết lập và cải thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi để bảo vệ an ninh quốc gia tại Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông**, là một quyết định được
**Pháp luật quốc gia** được hiểu là tổng hợp các quy tắc xử sự do các cơ quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia thừa nhận, ban hành và bảo đảm thực hiện, thể
thumb | 220x124px | right | Luật hình sự thời [[nhà Nguyễn được viết bằng chữ Hán]] Khái niệm **luật hình sự** (Tiếng Anh: _criminal law_) nói về những luật có chung tính chất là
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
nhỏ|[[Tuyên bố của Dunmore tuyên bố thiết quân luật ở Thuộc địa Virginia vào ngày 27 tháng 5 năm 1775, vài tháng sau khi bắt đầu Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ]] **Thiết quân luật**
**Chế định hợp đồng trong Luật dân sự Việt Nam** là tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự quy định về **hợp đồng**. Đây là một chế định quan trọng, trung tâm trong
nhỏ|Tòa Hoàng gia, biểu tượng cho Hệ thống pháp luật Anh quốc **Pháp luật Anh** là hệ thống pháp luật được áp dụng cho toàn xứ Anh và xứ Wales được xây dựng cơ sở
**Luật An ninh mạng Việt Nam** được giao cho Bộ Công an chủ trì, soạn thảo để khắc phục những tồn tại, hạn chế cơ bản trong công tác an ninh mạng để góp phần
**Luật Phòng, chống tham nhũng 2018** (số ký hiệu: ) là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành năm 2018 bởi Quốc hội Việt Nam khóa XIV đặt ra toàn bộ quy định
**Luật La Mã** là hệ thống pháp luật của La Mã cổ đại, phát triển qua nghìn năm luật học, từ Thập nhị Bảng (khoảng năm 449 TCN), đến bộ luật _Pháp điển Dân sự_
**Định luật điện phân Faraday** là một định luật điện phân cơ bản do Michael Faraday đưa ra năm 1833. Định luật này chỉ ra rằng khối lượng m của chất bị phân li tỉ
**Đạo luật trợ giúp người tỵ nạn và di dân Đông Dương** (tiếng Anh: _Indochina Migration and Refugee Assistance Act_) được lập ra nhằm ứng phó trước sự kiện Việt Nam Cộng hòa sụp đổ
**Phan Anh** (1 tháng 3 năm 1912 – 28 tháng 6 năm 1990) là một luật sư và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Thanh niên của Đế quốc Việt
**Đạo luật Độc lập Litva** () là văn kiện tuyên bố khôi phục quyền độc lập của Litva dưới một chính thể dân chủ, thủ đô là Vilnius. Đạo luật được Hội đồng Litva nhất
**Luật Cơ bản Đặc khu hành chính Hồng Kông thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một đạo luật quốc gia của Trung Quốc, quy định về tổ chức chính quyền Hồng Kông gồm
Dưới đây là các sự việc nổi bật (bao gồm những tình huống gây tranh cãi, sự cố...) xuất hiện trong chương trình _Đường lên đỉnh Olympia._ ## Sự việc xảy ra trong các cuộc
**Pháp luật quốc tế về quyền con người** (tiếng Anh: International Human Rights Law) là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế do các quốc gia và các tổ chức