✨DShK

DShK

DShK (tiếng Nga: Дегтярёва-Шпагина Крупнокалиберный, phiên âm La tinh: Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny) là một trong những mẫu súng máy hạng nặng sử dụng đạn 12,7x108mm nổi tiếng nhất của Liên Xô. Nó được nhìn thấy sử dụng lần đầu trong trên các phương tiện chiến đấu bọc thép của Liên Xô cuộc Chiến tranh Mùa đông 1940, sau đó là Chiến tranh thế giới thứ hai và các cuộc xung đột trong Chiến tranh Lạnh.

Lịch sử ra đời

Sau đại chiến thế giới thứ nhất, các chuyên gia quân sự Liên Xô nhận ra một điều rằng: lực lượng không quân và thiết giáp của nhiều nước châu Âu đang phát triển rất nhanh chóng, đặc biệt là lực lượng không quân. Những chiếc máy bay làm bằng khung gỗ và giấy mỏng manh của Thế chiến 1 dần được thay thế bằng những chiếc máy bay được làm hoàn toàn bằng kim loại với tầm bay cao hơn, tốc độ bay lớn hơn, trang bị vũ khí mạnh hơn. Đồng thời, khả năng bị bắn hạ bởi súng máy phòng không đối với những chiếc máy bay này cũng ngày một giảm đi đáng kể. Điều này đã làm phát sinh yêu cầu về một khẩu súng máy mới có uy lực lớn hơn. Liên Xô quyết định phát triển một loại súng máy hạng nặng tương đương với Browning M2 của Mỹ vào cuối những năm 1920

Nhà thiết kế Vasily Degtyaryov đã thiết kế ra được một khẩu súng máy mới, đó là mẫu "Degtyaryova Krupnokaliberny" ("ДК" hay "Дегтярёв Крупнокалиберный"), lấy hình mẫu từ khẩu Degtyarov DP của mình để phát triển ra DK. Mẫu súng máy mới không sử dụng loại đạn 7.62×54mmR trước đó mà chuyển hẳn sang sử dụng loại đạn mới được phát triển là đạn 12,7x108mm (theo định danh của Hồng Quân là đạn B-30). Loại đạn mới này có động năng lớn hơn làm cho DK có sức sát thương cũng như sức phá hủy mạnh hơn rất nhiều so với đạn 7.62×54mmR.

DK được chấp nhận đưa vào sản xuất với số lượng nhỏ từ năm 1931 đến năm 1935 để trang bị cho các xe bọc thép, xe tăng hạng nhẹ của Liên Xô và trên cả một số tàu chiến nhỏ của Hải quân Liên Xô. Vào năm 1938, Georgy Shpagin đã thiết kế cho khẩu đại liên DK một cơ chế nạp đạn mới, từ hộp tiếp đạn 30 viên sang sử dụng dây đạn 50 viên để tăng thời gian duy trì hỏa lực của súng. Từ đó, đại liên "Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny" (Súng máy cỡ nòng lớn của Degtyaryov – Shpagin hay đại liên Degtyaryov - Shpagin) đã được ra đời, gọi tắt là DShK-38. DShK-38 chính thức được đưa vào phục vụ trong biên chế của Hồng quân Liên Xô tại các binh chủng bộ binh, thiết giáp, phòng không và hải quân từ năm 1940.

Không chỉ được dùng trong tác chiến phòng không, DShK còn được sử dụng cho nhiệm vụ yểm trợ bộ binh khi tác chiến trên mặt đất (hoặc tác chiến từ trên xe tăng). Khi đó, súng sẽ được gắn trên một bộ chân đế có hai bánh xe, hai càng cố định và một tấm khiên chắn bằng thép để bảo vệ cho xạ thủ (khi tác chiến trên mặt đất). Còn khi tác chiến từ trên xe tăng thì súng được gắn trên một loại giá được thiết kế dành riêng cho xe tăng.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Năm 1946, phiên bản hiện đại hóa của khẩu DShK-38 là DShK-38/46 hay DShKM đã ra đời và nhanh chóng thay thế vai trò của khẩu DShK-38 trong biên chế của quân đội Liên Xô. Một số dòng xe tăng hiện đại sau Chiến tranh thế giới thứ hai như T-55, T-64 của Liên Xô vẫn sử dụng đại liên DShK làm hỏa lực phòng không cũng như hỏa lực yểm trợ bộ binh tiêu chuẩn cho đến khi đại liên NSV hơn ra đời và thay thế cho nó vào năm 1972. T-72 là mẫu tăng hiện đại đầu tiên trang bị NSV thay cho DShKM. Nhiều phiên bản khác nhau của khẩu súng này đã được sản xuất với số lượng lớn tại các nước bên ngoài Liên Xô như Trung Quốc, Iran, Pakistan,... Hiện nay, Pakistan và Iran là hai quốc gia vẫn còn sản xuất phiên bản DShK của Trung Quốc.

Từ năm 1950 trở đi, đại liên DShK bắt đầu được Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam từ các gói hàng viện trợ do Liên Xô cung cấp và nó nhanh chóng trở thành vũ khí phòng không tầm thấp cũng như vũ khí yểm trợ bộ binh tiêu chuẩn trong các đại đoàn chủ lực và các tiểu đoàn phòng không độc lập của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam.

Trong Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975), số lượng đại liên DShK phục vụ trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tăng lên đáng kể và đồng thời, Quân chủng Phòng không - Không quân của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng ngày một trở nên lớn mạnh, quy củ hơn trước rất nhiều lần. Mỗi một trung đoàn thường được trang bị khoảng từ 3 đến 4 khẩu súng này. Còn mỗi một tiểu đoàn thì được trang bị ít hơn trung đoàn, thường chỉ có khoảng từ 2 đến 3 khẩu. Từ năm 1972 trở đi, số lượng súng DShK được trang bị đối với cấp trung đoàn được tăng lên thành 5 đến 7 khẩu hoặc được tổ chức riêng biệt thành các đại đội hỏa lực phòng không riêng biệt sử dụng hỗn hợp hai loại súng máy là DShK 12,7 mm và súng máy hạng nặng KPV 14,5 mm. Cho đến nay, số lượng đại liên DShK được biên chế trong hỏa lực cấp trung đội trực thuộc các đại đội bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam thường vào khoảng từ 3 đến 5 khẩu. Vậy nên, nó thường được gọi là súng máy cấp đại đội.

Đối với Binh chủng Tăng - Thiết giáp của Quân đội nhân dân Việt Nam thì DShK được gắn trên các xe bọc thép BTR-40, BTR-50, trên tháp pháo xe tăng T-54/55 do pháo thủ thứ hai hoặc chính chỉ huy xe tăng đó trực tiếp điều khiển. Nó vừa dùng làm hỏa lực yểm trợ tầm gần cho bộ binh, vừa dùng làm hỏa lực phòng không tầm thấp. Đối với các tàu tuần tiễu cỡ nhỏ hoặc xuồng phóng lôi, DShK cũng được gắn trên các giá đỡ, phối hợp với các loại vũ khí khác trên tàu để tạo ra màn hỏa lực dày đặc.

Trong tác chiến phòng không, nhiều đơn vị hỏa lực cấp đại đội đến tiểu đoàn phòng không sử dụng súng máy DShK 12,7 mm kết hợp với các loại súng máy cỡ lớn như ZPU-1, ZPU-2, ZPU-4. Điển hình là cụm tiểu cao 175 thuộc Trung đoàn cao xạ 252 (Sư đoàn phòng không 363 - Hải Phòng). Trong biên chế của tiểu đoàn có một đại đội gồm có 12 khẩu DShK 12,7 mm và 2 đại đội gồm có 18 khẩu ZPU-2 và ZPU-4 đã chiến đấu tốt trong Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972, bắn rơi 5 máy bay tiêm kích các loại A-6, A-7, F-4H và một chiếc F-111 của Không lực Hoa Kỳ.

Đối với các lực lượng dân quân tự vệ trong thời kì Chiến tranh Việt Nam, đại liên DShK cũng được sử dụng rất rộng rãi bởi lực lượng này. Trong hai cuộc chiến tại Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Không lực Hoa Kỳ (1964-1968, Chiến dịch Linebacker và Chiến dịch Linebacker II), đại liên DShK được trang bị cho các trung đội và tiểu đội dân quân, tạo dựng màn hỏa lực tầm thấp chống lại các máy bay của Không quân Hoa Kỳ. Đêm 22 rạng sáng ngày 23 tháng 12 năm 1972, ba trung đội tự vệ của Nhà máy Cơ khí Mai Động, Nhà máy Cơ khí Lương Yên và Xí nghiệp Gỗ Bạch Đằng đã phục kích tại cảng Vân Đồn (Hai Bà Trưng - Hà Nội), sử dụng 3 khẩu DShK và 2 tổ hợp súng máy phòng không ZPU-1 14,5 mm đã bắn rơi tại chỗ một máy bay F-111A của Không lực Hoa Kỳ, bắt sống phi công.

Không chỉ được dùng để bảo vệ vùng trời miền Bắc, DShK kết hợp với nhiều thứ vũ khí phòng không khác như pháo phòng không 37 mm hay pháo phòng không 57 mm cũng được nhìn thấy chiến đấu tại các binh trạm của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bố trí dọc theo tuyến đường Đường Trường Sơn để chống lại các cuộc càn quét, bắn phá bằng không quân của Không quân Hoa Kỳ cũng như Không lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào con đường này.

DShK được nhiều chuyên gia quân sự Mỹ đánh giá là một trong những thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm đối với các loại trực thăng của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Binh sỹ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thường dùng chiến thuật "đón lõng đường bay" để săn tìm, phá hủy trực thăng Mỹ. Họ ẩn nấp, ngụy trang dưới hầm hoặc dưới tán cây rậm rạp, đợi trực thăng Mỹ sà thấp xuống tìm mục tiêu hoặc đổ quân chi viện thì nổ súng để triệt hạ nó. Chỉ cần vài phát đạn 12,7mm bắn trúng trực diện chiếc trực thăng là đủ để bắn rơi nó. Trong số hơn 6.700 trực thăng các loại của Mỹ bị phá hủy ở Việt Nam thì tỷ lệ trực thăng bị hạ lớn nhất là do súng máy DShK gây nên. Có nhiều chiến sĩ của QĐNDVN đã triệt hạ được nhiều máy bay đối phương (đặc biệt là trực thăng) bằng DShK trong Chiến tranh Việt Nam, tiêu biểu như:

Trong 3 năm 1970 - 1972, chiến sĩ Lê Xuân Tưởng (sinh năm 1950 tại thôn Xuân Hồi, xã Liên Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) đã cùng với đồng đội của anh tiêu diệt tới 37 chiếc máy bay Mỹ bằng DShK, trong đó có 2 chiếc máy bay phản lực F-4 Phantom của không quân Mỹ. Đặc biệt, trong trận đánh ngày 02/07/1970 ở căn cứ Dốc Mây, chỉ trong 30 phút, Lê Xuân Tưởng đã bắn hạ tới 5 chiếc máy bay UH-1A của Mỹ Chiến sĩ Tạ Duy Sản (tổ 1B, phường Tân Thịnh, thành phố Hoà Bình) cùng với khẩu DShK đã hạ 4 máy bay Mỹ (trong 3 ngày 15, 16, 17/7/1968, trung đội của anh đóng chốt tại sân bay Khe Sanh đã hạ tới 7 máy bay CH-47, trong đó, chiến sĩ Tạ Duy Sản tự mình bắn hạ 1 chiếc). Lê Hữu Tựu (1944 - 1972), Anh hùng LLVTND; Đại đội phó Đại đội phòng không 3, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 2, quân khu 5. quê xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ông là xạ thủ súng máy phòng không 12,7 mm, chiến đấu trên 50 trận, bắn rơi 31 máy bay trực thăng Mỹ. Chiến sĩ Nguyễn Văn Nhương (Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, quê ở xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã cùng DShK tham gia 175 trận đánh trong những năm từ 1968 đến 1972, bắn rơi 13 máy bay các loại (riêng trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, bản thân ông đã bắn rơi 7 máy bay) Ngày 30 tháng 7 năm 1970, tại khu vực núi Cô Pung, tây Thừa Thiên-Huế, khẩu đội súng máy 12,7mm thuộc sư đoàn 324, xạ thủ Đặng Thọ Truật đã tổ chức phục kích trực thăng Mỹ đổ quân. Trong khoảng 30 phút, với 125 viên đạn, Đặng Thọ Truật đã bắn rơi tại chỗ 13 trực thăng, bắn bị thương 11 chiếc khác. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đặng Thọ Truật được tặng thưởng 5 danh hiệu "Dũng sĩ diệt máy bay", 2 danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ" cùng nhiều phần thưởng khác. Ngày 10/8/2015, Đặng Thọ Truật được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Lúc 13h ngày 13/9/1968, Đại đội 18 Trung đoàn 320, với 2 khẩu DShK và 40 viên đạn đã bắn rơi 2 chiếc trực thăng UH-1, trong đó 1 chiếc đang chở ban chỉ huy Mỹ, giết chết thiếu tướng Mỹ Keith Lincoln Ware (Tư lệnh Sư đoàn 1 "Anh Cả Đỏ" của Mỹ)

Trong Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979, súng máy DShK do Liên Xô viện trợ trực tiếp cho Việt Nam được các cựu binh của Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng hết sức rộng rãi tại các căn cứ phòng thủ phía Bắc. Uy lực khủng khiếp của nó gây tổn thất lớn cho những làn sóng biển người của quân đội Trung Quốc.

Hiện nay, DShK trong biên chế của Quân đội nhân dân Việt Nam đang dần được thay thế bởi loại súng máy 12,7mm khác hiện đại hơn là NSV. Thế nhưng, DShK vẫn sẽ được các đơn vị dân quân tự vệ của Quân đội nhân dân Việt Nam tin tưởng sử dụng thêm một thời gian dài nữa.

Thông số

  • Khối lượng: 34 kg (chỉ tính riêng phần súng)
  • Chiều dài: 1.625 mm
  • Cỡ nòng: 12,7 mm
  • Độ dài nòng: 1.070 mm
  • Cơ chế hoạt động: Trích khí
  • Cỡ đạn: 12.7x108mm
  • Cơ chế nạp đạn: Dây đạn 50 viên
  • Tốc độ bắn: 550 - 600 viên/phút
  • Vận tốc đầu đạn: 850 m/s
  • Tầm bắn hiệu quả: 1500 m
  • Tầm bắn tối đa: 3200 m.

Các phiên bản

  • DShK-38: phiên bản DShK nguyên thủy.
  • DShK 38/46: phiên bản DShK 38 được hiện đại hóa vào năm 1946. Súng thường được gọi với cái tên đơn giản hơn là DShKM.
  • Type 54: phiên bản DShKM do công ty Norinco của Trung Quốc sản xuất bất hợp pháp, vẫn còn được Pakistan và Iran sản xuất dưới sự cho phép của Norinco.
  • MGD-12.7: Phiên bản Type 54 do Iran sản xuất.

Các quốc gia sử dụng

nhỏ|DShK gắn trên [[Humvee tại Romania]] nhỏ|DShK gắn trên [[Humvee tại Iraq]]

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**DShK** (tiếng Nga: **Д**егтярёва-**Ш**пагина **К**рупнокалиберный, phiên âm La tinh: _Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny_) là một trong những mẫu súng máy hạng nặng sử dụng đạn 12,7x108mm nổi tiếng nhất của Liên Xô. Nó được nhìn thấy sử
**NSV** (tiếng Nga: **НСВ,** viết tắt của **Никитина-Соколова-Волкова**) là một loại súng máy hạng nặng (đại liên) sử dụng loại đạn 12,7x108mm của Liên Xô, do Griogry Nikitin (Г. И. Никитин), Yuri. S. Sokolov (Ю.
**61-K** (tiếng Nga: **37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)**) là một loại pháo phòng không tự động có cỡ nòng 37 mm được Liên Xô sản xuất từ cuối năm 1939. Được dùng chủ
nhỏ|Một khẩu [[súng ngắn bán tự động SIG Pro]] **Súng** là một loại vũ khí sử dụng lực đẩy của thuốc súng để bắn đạn qua nòng súng nhằm gây sát thương hoặc tiêu diệt
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**ISU-152** là một pháo tự hành xung kích bọc thép của Liên Xô dùng trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Sau chiến tranh, ISU-152 tiếp tục được sử dụng - chủ yếu trong
Khẩu [[MG 08 của Đức.]] Khẩu [[Browning M2 với bệ chống ba chân]] Khẩu [[DShK của Liên Xô gắn trên xe tăng TR-85.]] **Súng máy hạng nặng** (thuật ngữ tiếng Anh: **_H**eavy **m**achine **g**un_ -
**ZPU** (, nghĩa là "giá đỡ súng máy phòng không") là một dòng tổ hợp súng máy phòng không súng máy hạng nặng KPV của Liên Xô. Bắt đầu vào biên chế cho Liên Xô
Bell UH-1 Iroquois được [[Không quân Nhân dân Việt Nam tiếp quản và sử dụng, năm 2006]] UH-1H thuộc [[Không lực Việt Nam Cộng hòa, năm 1971]] **UH-1 Iroquois** là loại máy bay trực thăng
**T-62** là thế hệ xe tăng hạng trung kế tiếp và phiên bản cải tiến của xe tăng T-54/55 do Liên Xô nghiên cứu thiết kế, được đưa vào sản xuất hàng loạt năm 1961
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
Nội chiến Lào là một cuộc xung đột quân sự giữa lực lượng du kích theo chủ nghĩa Marx là Pathet Lào chống lại Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào (FAR) của Vương quốc
Tăng [[T-55 được dùng trong cuộc nội chiến Campuchia]] Nội chiến Campuchia là một cuộc xung đột đẫm máu giữa **Đảng Campuchia Dân chủ** (được gọi là Khmer Đỏ) và nước Cộng hòa Khmer (République
**BTR-152** (BTR, ), còn được gọi là **BTR-140**, là loại xe bọc thép chở quân (không có khả năng đổ bộ và lội nước) do Liên Xô chế tạo từ năm 1950. BTR-152 được phát
**_BTR-60_** (BTR, ) là xe thiết giáp chở quân (APC) bánh lốp do Liên Xô chế tạo. Nó được chế tạo nhằm thay thế cho chiếc BTR-152 và bắt đầu phát triển từ năm 1950.
**_Molotov_** () là một con tàu thuộc Dự án 26bis của Hải quân Liên Xô đã phục vụ trong Thế Chiến II và Chiến tranh Lạnh. Nó đã hỗ trợ Hồng quân Liên Xô trong
thumb|[[UH-60 Black Hawk, đang vận chuyển quân đội trong một cuộc tập trận tấn công trên không.]] **Trực thăng vận** () là hoạt động tấn công của các lực lượng vũ trang tác chiến dựa
**Georgy Semyonovich Shpagin** (__; sinh ngày 17 tháng 4 năm 1897 - mất ngày 6 tháng 2 năm 1952) là một nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng của Liên Xô (nay là Nga). Ông
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**T-72** là xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) của Liên Xô, được sản xuất vào năm 1971 và ra mắt vào năm 1977. Mặc dù có hình dạng rất giống T-64, T-72 được các
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**SU-152** là tên của một loại lựu pháo tự hành bánh xích bọc thép cỡ nòng 152mm của Liên Xô được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. SU-152 được trang bị một
Súng máy [[PK (súng máy)|PK của Lục quân Iraq|thế=]] **Súng máy**, còn gọi là **súng liên thanh**, là một loại súng có thể bắn hoàn toàn tự động, có khả năng bắn thành các loạt
**Danh sách súng máy** là trang liệt kê các loại súng máy. ### Súng máy cá nhân loại nhẹ/súng máy theo tổ *Besal *Bren (L4) *Browning wz.1928 *Charlton Automatic Rifle *Chauchat *Súng trường tự động
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
**_Súng máy hạng nặng kiểu 77_** được xem là kiểu súng máy phòng không sử dụng đạn 12.7 mm đầu tiên do Trung Quốc chế tạo. Kiểu 85 là mẫu phát triển tiếp theo từ nó.
**Trận điểm cao 3234** là một trận phòng thủ giữa 39 lính dù Liên Xô (VDV) chống lại số lượng chiến binh Mujahideen đông đảo hơn nhiều lần, diễn ra trên _điểm cao 3234_ tại
**Xe tăng Iosif Stalin** (hay **Xe tăng IS**), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng
**KSVK** (tiếng Nga:**КСВК**, **К**рупнокалиберная **С**найперская **В**интовка **К**овровская), đôi khi còn gọi là **SVN-98** hay **ASVK**, là loại súng bắn tỉa công phá sử dụng thiết kế bullpup của Nga. Loại súng này sử dụng loại
**PPSh-41** (_Pistolet-Pulemyot Shpagina obrazet 1941_ - _Súng tiểu liên của Shpagin kiểu năm 1941_) là súng tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng Quân trong Thế chiến thứ hai. Súng do kỹ sư Georgy S. Shpagin
**ZSU-57-2 (Ob'yekt 500)** là một loại pháo phòng không tự hành (SPAAG) của Liên Xô. Vũ khí là hai khẩu pháo tự động 57 mm. 'ZSU' là từ viết tắt của _Zenitnaya Samokhodnaya Ustanovka_ (), nghĩa
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**ASU-85** (, _xe chiến đấu tự hành đổ bộ đường không_) là một loại pháo tự hành đổ bộ đường không do Liên Xô thiết kế vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1959
**Xuồng CQ ** hay còn gọi là **Xuồng Chủ Quyền** là một loại phương tiện được nhiều đơn vị đóng quân của Việt Nam sử dụng trên Biển Đông. Xuồng có khả năng trượt trên
**Binh chủng Pháo Phòng không** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là binh chủng có bề dày lịch sử chiến đấu lớn nhất trong
**Sự kiện Vũng Rô** diễn ra từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 2 năm 1965 tại vịnh Vũng Rô (tỉnh Phú Yên), nói về việc phá hủy tàu C-143 (thuộc đoàn tàu Không số)
**BRDM** là một từ viết tắt của thuật ngữ _Boyevaya Razvedyvatelnaya Dozornaya Mashina_, () có nghĩa là "Xe tuần tra trinh sát bọc thép". BRDM là xe lội nước bánh lốp 4x4 trang bị giáp
**Rambo III** là một bộ phim hành động - chiến tranh Mỹ năm 1988 do đạo diễn Peter MacDonald thực hiện, nó là phần tiếp theo của hai bộ phim _First Blood_ và _Rambo: First
nhỏ|Đằng sau xe tăng T-40 **Xe tăng trinh sát lội nước T-40** là một xe tăng hạng nhẹ lội nước được Hồng quân sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Tầm quan
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
nhỏ|246x246px|[[Xe tăng AHS KRAB trang bị pháo 155mm đạt tầm bắn 30km, dùng khung bệ cơ sở xe tăng PT-91.]] **Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Ba Lan** (gọi đơn giản là Quân đội Ba
phải|nhỏ|200x200px|Súng máy [[Degtyarov DP|DP-27]] **Vasily Alekseyevich Degtyaryov** (__; 2 tháng 1 năm 1880, Tula - 16 tháng 1 năm 1949, Moskva) là một kỹ sư người Nga chuyên thiết kế vũ khí, Thiếu tướng Kỹ