✨Đảo Wrangel

Đảo Wrangel

Đảo Wrangel (tiếng Nga: остров Врангеля, ostrov Vrangelya) là một hòn đảo trong Bắc Băng Dương, giữa biển Chukotka và biển Đông Siberia. Kinh tuyến 180° chạy cắt dọc đảo Wrangel, chia đảo ra thành hai phần gần như bằng nhau. Do vậy, đường đổi ngày quốc tế đã chạy lệch về phía đông so với kinh độ này để tránh phức tạp hóa giờ giác cho đảo này cũng như bán đảo Chukotka trên phần đại lục của Nga. Đảo Wrangel thuộc thẩm quyền quản lý hành chính của Khu tự trị Chukotka thuộc Liên bang Nga . Trên đảo đá này có một trạm dự báo thời tiết và hai khu định cư của những người Eskimo làm nghề đánh cá ở phía nam của đảo (Ushakovskoye và Zvyozdny). Vùng đất gần nhất với đảo Wrangel là đảo đá nhỏ gọi là đảo Herald cách đảo Wrangel khoảng 70 km (44 dặm) về phía đông. Hàng loạt các công cụ đá và ngà voi dã được tìm thấy, bao gồm cả lao móc có chốt bấm. Các định niên đại bằng cacbon phóng xạ cho thấy sự sinh sống của con người tại đây đồng thời với sự tồn tại của những con voi ma mút cuối cùng trên đảo, khoảng 1700 TCN, mặc dù người ta vẫn chưa tìm thấy chứng cứ trực tiếp nào về việc săn bắn voi ma mút.

Truyền thuyết thịnh hành của người Chukchi tại Siberia kể rằng một thủ lĩnh tên là Krachai hay Krahay, đã cùng những người dân của mình (người Krachai hay Krahay) vượt qua băng tuyết để tới sinh sống tại vùng đất phương bắc. Mặc dù câu chuyện này chỉ là thần thoại, nhưng sự tồn tại của đảo hay châu lục ở phía bắc là có sự tin cậy do sự di cư hàng năm của tuần lộc trên mặt băng, cũng như sự xuất hiện của các mũi giáo màu xám đen trôi dạt vào bờ biển Bắc cực, được dùng làm đồ trang sức mà người Chukchi không biết đến từ đâu.

Trước khi phát hiện

Năm 1764, một người Cossack là Sergeant Andreev tuyên bố rằng đã nhìn thấy đảo này, gọi nó là "Vùng đất Tikegen" và tìm thấy chứng cứ về các cư dân của đảo (người Krahay). Đảo này được đặt tên theo nam tước Ferdinand von Wrangel (1797 - 1870), người sau khi đọc báo cáo của Andreev và nghe những câu chuyện của người Chukchi về vùng đất tại các tọa độ của đảo, đã thiết lập đoàn thám hiểm (1820–1824) để đi tìm đảo này, nhưng không thành công

Thám hiểm của người Anh và Mỹ

Năm 1849, Henry Kellett, thuyền trưởng HMS Herald, đã đổ bộ lên và đặt tên đảo Herald, và nghĩ rằng ông đã nhìn thấy một đảo khác ở phía tây; sau đó nó được ghi trên biểu đồ của Bộ Hải quân Anh như là "Kellett Land". Tháng 8 năm 1867, Thomas Long, một thuyền trưởng của tàu săn cá voi của Hoa Kỳ, "đã đến gần đảo tới mười lăm dặm. Tôi đã đặt tên cho vùng đất phương bắc này là Wrangell [nguyên văn] Land (Vùng đất Wrangell) … như là sự kính trọng thích đáng để ghi nhớ về người đã bỏ ra ba năm liên tiếp về phía bắc của vĩ độ 68°, và chứng minh vấn đề của vùng biển khơi vùng cực này bốn mươi lăm năm trước, mặc dù những người khác với thời gian muộn hơn nhiều đã cố gắng để tuyên bố là xứng đáng với phát hiện này."

George W. DeLong, chỉ huy của tàu USS Jeanette, đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm vào năm 1879 trong nỗ lực để tới được Bắc cực, dự kiến sẽ đi theo "sườn đông của Kellett land", mà ông nghĩ là trải dài tới Bắc cực. Con tàu của ông bị vây hãm trong băng và trôi dạt về phía đông trong phạm vi tầm nhìn của đảo Wrangel trước khi bị đè nát và chìm. Sự đổ bộ lần đầu tiên (đã biết) lên đảo Wrangel diễn ra vào ngày 12 tháng 8 năm 1881 là của một nhóm từ tàu USRC Corwin, họ đã tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo này cho Hoa Kỳ. Chuyến thám hiểm dưới sự chỉ huy của Calvin L. Hooper, đã tìm kiếm tàu Jeannette và 2 tàu săn cá voi bị thất lạc bên cạnh việc tiến hành thám hiểm chung. Trong đoàn này có cả nhà tự nhiên học John Muir, là người đã xuất bản những miêu tả đầu tiên về đảo Wrangel.

Thám hiểm thủy văn Bắc Băng Dương của Nga

Năm 1911, một nhóm người Nga từ 2 tàu phá băng Vaigach và Taymyr dưới sự chỉ huy của Boris Vilkitsky đã đổ bộ lên đảo và cắm cờ Nga tại đây .

Năm 1916, đế quốc Nga tuyên bố đảo Wrangel là một phần lãnh thổ của mình.

Thất bại của các đoàn thám hiểm Stefansson

Năm 1914, những người sống sót của đoàn thám hiểm Bắc cực được trang bị kém của Canada, do Vilhjalmur Stefansson tổ chức, đã phải sống trên hoang đảo này tới 9 tháng sau khi tàu của họ, Karluk, bị xiết chặt và đè nát trong băng. Những người sống sót này đã được tàu đánh cá trang bị động cơ dầu của Mỹ là King & Winge giải cứu sau khi thuyền trưởng Robert Bartlett đã phải đi bộ trên mặt băng của biển Chukotka vào Siberia để nhờ trợ giúp.

Năm 1921, đảo Wrangel lại chứng kiến thêm một thảm họa nữa khi Stefansson gửi 5 người (1 người Canada, 3 người Mỹ và 1 người Inuit) trong một cố gắng nhằm tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo này cho Canada. Những nhà thám hiểm này do chính tay Stefansson lựa chọn trên cơ sở kinh nghiệm trước đây cũng như các khả năng lý thuyết của họ. Steffanson tính toán đến những người này với kiến thức vượt trội trong các lĩnh vực địa lý và khoa học cho đoàn thám hiểm. Nhóm ban đầu bao gồm Allan Crawford từ Canada, Fred Maurer, Lorne Knight và Milton Galle từ Hoa Kỳ nhưng gần như tất cả đã chết do bệnh scobut. Năm 1923, người sống sót duy nhất của đoàn thám hiểm này, người đàn ông của tộc Inuit là Ada Blackjack, đã được một tàu cứu thoát khi cho đổ bộ một nhóm 13 người (1 người Mỹ là Charles Wells và 12 người Inuit).

Liên Xô

Năm 1924, Liên Xô đã loại bỏ các thành viên của khu định cư này và thiết lập khu định cư tồn tại cho tới nay trên đảo. Năm 1926, dưới sự chỉ huy của G. A. Ushakov, Liên Xô cho xây dựng một trạm nghiên cứu vùng cực tại đây. Cùng với Ushakov, người ta đưa tới đây định cư 59 người nữa, chủ yếu là người Eskimo.

Trong thập niên 1930, đảo Wrangel trở thành địa điểm của sự kiện tội phạm kỳ quái khi nó nằm dưới sự quản lý của viên thống đốc được chỉ định nhưng ngày càng chuyên quyền độc đoán tên là Konstantin Semenchuk, kẻ đã kiểm soát công chúng và các nhân viên của mình thông qua tống tiền và giết người công khai. Ông ta cấm những người Eskimos địa phương không được đi săn moóc (Odobenus rosmarus), đặt họ vào tình trạng chết đói, trong khi vẫn thu thập thực phẩm cho bản thân mình. Ông ta còn dính líu vào những cái chết bí ẩn của một số những người đối lập, kể cả vị bác sĩ tại địa phương. Phiên tòa tháng 6 năm 1936 tại Moskva đã xử tử hình Semenchuk vì tội "cướp bóc" và vi phạm luật pháp Xô viết.

Trong và sau Đại chiến thế giới lần thứ hai nhiều tù binh người Đức và các chiến hữu của Andrey Vlasov đã bị cầm tù và chết trên đảo Wrangel. Tù nhân sau này đã di cư sang Israel, Efim Moshinsky, tuyên bố đã nhìn thấy Raoul Gustav Wallenberg tại đó vào năm 1962.

Theo một số cá nhân tại Mỹ, bao gồm cả nhóm [http://statedepartmentwatch.org/ State Department Watch] , 8 đảo vùng Bắc cực hiện tại do Nga kiểm soát, trong đó có đảo Wrangel, bị chính quyền Hoa Kỳ đòi. Tuy nhiên, theo [https://web.archive.org/web/20030625171709/http://www.state.gov/p/eur/rls/fs/20922.htm Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ], thì yêu sách như thế không tồn tại. [http://www.un.org/Depts/los/LEGISLATIONANDTREATIES/PDFFILES/TREATIES/USA-RUS1990MB.PDF Hiệp ước biên giới biển Liên Xô/Mỹ 1990], vẫn chưa được Duma Nga phê chuẩn, không đề cập tới tình trạng của các đảo này.

Đặc điểm tự nhiên

Đảo này rộng khoảng 135 km (84 dặm), rộng khoảng 80 km (50 dặm) và có diện tích khoảng 7.670 km² (2.963 dặm vuông), trong đó khoảng 61% là núi. Trên đảo có một vài sông băng và hồ nhỏ và lãnh nguyên Bắc cực. Phần trung tâm đảo là vùng núi. Địa hình đảo có thể coi là bao gồm 3 dãy núi chạy song song theo chiều đông-tây mà người Nga gọi là dãy núi Bắc (thấp nhất), Trung (hùng vĩ nhất, rộng tới 40 km và dài 145 km) và Nam. Chúng đều kết thúc ở hai đầu đông tây là các vách núi đá lởm chởm. Trong khi đó, theo quan điểm thời kỳ đó thì voi ma mút đã tuyệt chủng vào khoảng 10-12 nghìn năm trước. Sau này người ta phát hiện ra rằng các di cốt này thuộc về một phân loài tương đối nhỏ của voi ma mút., do hạn chế nguồn cung cấp thức ăn nên chúng có kích thước nhỏ hơn nhiều so với voi ma mút thông thường, cư trú trên đảo Wrangel vào thời gian mà các kim tự tháp Ai Cập đã có và biến mất vào khoảng thời gian trị vì của Tutankhamun và giai đoạn thịnh vượng của nền văn minh Mycenae ở Hy Lạp. Điều này đặt đảo Wrangel trong chuỗi các địa chỉ khảo cổ học quan trọng nhất của hành tinh.

Năm 1953, chính quyền tỉnh Magadan đã thông qua nghị quyết về bảo tồn các khu sinh sống trên đất liền của hải cẩu và năm 1960, tỉnh Magadan đã quyết định thành lập khu bảo tồn dài hạn, được nâng cấp thành khu bảo tồn cấp nhà nước cộng hòa vào năm 1968.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đảo Wrangel** (tiếng Nga: остров Врангеля, _ostrov Vrangelya_) là một hòn đảo trong Bắc Băng Dương, giữa biển Chukotka và biển Đông Siberia. Kinh tuyến 180° chạy cắt dọc đảo Wrangel, chia đảo ra thành
Dưới đây là **danh sách các đảo của Nga**. Bao gồm cả các quần đảo và đảo nằm trên sông, hồ, biển nội địa có diện tích đáng kể. thumb|Mũi Tihii, Sakhalin (hòn đảo lớn
Đô đốc hải quân Ferdinand Wrangel Nam tước **Ferdinand von Wrangel** (tiếng Nga: Фердинанд Петрович Врангель (_Ferdinand Petrovich Vrangel_) hay Фёдор Петрович Врангель (_Fyodor Petrovich Vrangel_); 29 tháng 12 năm 1796 theo lịch Julius, Pskov,
thumb|Bản đồ vệ tinh bán đảo Krym tháng 5 năm 2015 **Krym** là một bán đảo tại Đông Âu, trên bờ biển phía bắc biển Đen, bị bao quanh hầu như hoàn toàn bởi biển
nhỏ|Đảo Wrangell **Đảo Wrangell** là một đảo thuộc quần đảo Alexander tại Alaska Panhandle ở đông nam Alaska. Đảo này dài 48 km (30 dặm Anh) và rộng 8–23 km (3–14 dặm). Diện tích đảo này là
**Nam tước Pyotr Nikolayevich Wrangel** (, ; ; 25 tháng 4 năm 1928), còn được biết đến với biệt danh **Nam tước đen**, là một thủ lĩnh của Bạch Vệ, một lực lượng quân sự
Bản đồ biển Chukotka (biển Chukchi). **Biển Chukotka** hay **biển Chukotskoye** (tiếng Nga: Чукотское море) hoặc **biển Chukchi** là một biển trên thềm lục địa (biển ven bờ) trong Bắc Băng Dương. Nó có ranh
Đường đổi ngày quốc tế **Đường đổi ngày quốc tế**, hay **đường thay đổi ngày quốc tế**, là một đường tưởng tượng dùng để làm ranh giới giữa múi giờ UTC+14 và UTC-12, đi gần
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
**Siberia** (, ) là vùng đất rộng lớn gần như nằm trọn trong nước Nga, chiếm gần toàn bộ phần Bắc Á và bao gồm phần lớn thảo nguyên Á-Âu. Siberia trong lịch sử là
**Tiếng Yupik Trung Xibia**, (còn gọi là **tiếng Yupik Xibia**, **tiếng Yupik eo biển Bering**, **Yuit**, **Yoit**) là một ngôn ngữ Yupik, được nói bởi người Yupik Xibia dọc theo miền duyên hải bán đảo
**Moóc**, còn gọi là **hải mã** theo một số từ điển về sinh học (tiếng Trung gọi là **hải tượng** tức **voi biển**, nhưng gọi thế thì trùng tên với chi _Mirounga_ trong tiếng Việt
**Voi ma mút lông xoăn**, còn gọi là **voi ma mút lãnh nguyên** (danh pháp khoa học: _Mammuthus primigenius_) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Voi ma mút lông xoăn là một
**Chi Voi ma mút** hay **chi Voi lông dài** (danh pháp khoa học: **_Mammuthus_**) là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến
**Khủng hoảng tên lửa Cuba** (tiếng Anh: _Cuban Missile Crisis_ hay còn được biết với tên gọi _Khủng hoảng tháng 10_ tại Cuba) là cuộc đối đầu giữa Liên Xô – Cuba với Hoa Kỳ
**Boloria polaris** là một loài bướm ngày thuộc họ Nymphalidae. Nó được tìm thấy ở Northernmost Scandinavia, Bắc Mỹ (in North Eastern Alaska và miền bắc Canada) và ở Greenland. Nó cũng được tìm thấy
**Raoul Wallenberg** (4.8.1912 – 17.7.1947) là doanh nhân, nhà ngoại giao và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Thụy Điển. Ông rất nổi tiếng về những nỗ lực thành công để cứu hàng ngàn
**Hellinsia wrangeliensis** là một loài bướm đêm trong họ Pterophoridae. Loài bướm đêm này được tìm thấy ở Nga, nơi nó được mô tả từ đảo Wrangel
phải|nhỏ| Băng trôi, [[Greenland ]] **Băng trôi** là một loại băng biển. Loại còn lại là băng cố định (là loại băng tiếp xúc với bờ biển, cát ngầm). Băng trôi di chuyển trên mặt
**Thế kỉ 17 TCN** bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm 1700 TCN và kết thúc vào năm 1601 TCN. ## Sự Kiện 1698 TCN : Hạ vương Tiết qua đời sau 25 năm
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Eduard Ernst Friedrich Hannibal Vogel von Fal(c)kenstein** (5 tháng 1 năm 1797 – 6 tháng 4 năm 1885) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Schleswig lần
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Chiến tranh Schleswig lần thứ hai** (; ) là cuộc xung đột quân sự thứ hai xảy ra như một kết quả của vấn đề Schleswig-Holstein – một trong những vấn đề ngoại giao phức
**Luise Ulrike của Phổ** (; 24 tháng 7 năm 1720 – 16 tháng 7 năm 1782) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1751 đến năm 1771 với tư cách là phối ngẫu của Adolf
**Phong Trào Bạch Vệ** (tiếng Nga: Бѣлое движение, _chuyển tự_: Bѣloye dvizheniye) là một trong những lực lượng chính trong Nội chiến Nga từ năm 1917 - 1922. Là lực lượng gồm cả chính trị
**Chính phủ Nam Nga thứ hai** () là một chính phủ Bạch vệ thành lập tại Sevastopol, Krym vào tháng 4 năm 1920. Đây là sự kế thừa cho Chính phủ Nam Nga thứ nhất
**Tỉnh Zaporizhzhia** (, hay ), là một tỉnh (oblast) tại miền nam Ukraina. Tỉnh có diện tích là , và dân số là . Tỉnh được hình thành vào năm 1939 khi tách từ tỉnh
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**USS _Whipple_ (DD- 217/AG-117)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**_U-405_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Thương vụ Alaska** (còn được biếm gọi đương thời là "Trò điên rồ của Seward" hay "Tủ đá của Seward") là việc Hoa Kỳ mua lãnh thổ Alaska, một vùng đất rộng 586.412 dặm vuông
Vị trí của eo đất Perekop. nhỏ|phảo|Hình chụp một đồng cỏ ở phía tây eo đất Perekop. **Eo đất Perekop** (; _Perekops'kyy pereshyyok_; ; _Perekopskiy peresheek_ , ) là một eo đất hẹp nối liền
**Ivan Vasilyevich Selivanov** (__; 19 tháng 11 (lịch cũ: 7 tháng 11) năm 1886 - 23 tháng 2 năm 1942) là một chỉ huy kỵ binh Nga và Liên Xô, từng tham gia Nội chiến
**Sergey Sergeyevich Kamenev** (; 4 (16) tháng 4 năm 1881 - 25 tháng 8 năm 1936) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân thời kỳ đầu, một trong những chỉ huy Hồng quân
Ngày **9 tháng 1** là ngày thứ 9 trong lịch Gregory. Còn 356 ngày trong năm (357 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *475 – Hoàng đế La Mã Zeno bị bức phải tẩu
**USS _Overton_ (DD-239)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**Mikhail Dmitryevich Solomatin** (5 tháng 12 (lịch cũ: 23 tháng 11) năm 1894 - 22 tháng 11 năm 1986) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Thượng
**_Hừng Đông_** (tiếng Anh: _Breaking Dawn_) là tiểu thuyết thứ tư và là tiểu thuyết cuối cùng trong bộ truyện _Chạng vạng_ của Stephenie Meyer. Cuốn tiểu thuyết được chia làm ba phần, phần đầu
nhỏ|Lính gác tại mộ của Moissei Urizki, chủ tịch Petrograd, người bị Bạch Vệ ám sát. Lời dịch của biểu ngữ: "Hãy giết chết bọn Tư sản và tay sai của chúng. Khủng bố đỏ
**Friedrich Franz II** (1823-1883) là một quý tộc và tướng lĩnh của quân đội Phổ. Ông cũng là Đại Công tước của Mecklenburg-Schwerin từ ngày 7 tháng 3 năm 1842 cho tới khi từ trần
"**Chính phủ khu vực Krym**" ( _Krymskoe kraevoe pravitel'stvo_) đề cập đến hai chế độ tồn tại ngắn liên tiếp trong Bán đảo Krym trong thời gian 1918 và 1919. ## Lịch sử Sau Cách
**Roberts Eidemanis** (, _Robert Petrovich Eideman_; 9 tháng 5 năm 1895 – 12 tháng 6 năm 1937) là một chỉ huy quân sự, nhà văn và nhà thơ người Liên Xô gốc Latvia. Bị hành