✨U-405 (tàu ngầm Đức)

U-405 (tàu ngầm Đức)

U-405 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra, đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng cùng ba tàu chiến với tổng tải trọng 361 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-405 bị tàu khu trục Hoa Kỳ đánh chìm trong Đại Tây Dương vào ngày 1 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-405 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,

Chuyến tuần tra thứ hai

U-405 khởi hành từ cảng Trondheim vào ngày 26 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã trong biển Barents ngoài khơi bán đảo Kola. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Skjomenfjord, Na Uy vào ngày 10 tháng 5, và đến cuối tháng 5 đã di chuyển đến cảng Bergen, Na Uy, rồi quay trở lại Kiel.

Trong chuyến tuần tra thứ tư, cùng xuất phát và kết thúc tại Skjomenfjord và diễn ra từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 20 tháng 9, U-405 tiếp tục hoạt động trong khu vực phía Bắc biển Na Uy và trong biển Barents. Nó tiếp tục đi đến cảng Bergen vào cuối tháng 9 sau khi kết thúc chuyến tuần tra.

1943

Chuyến tuần tra thứ sáu

Khởi hành từ cảng Bergen vào ngày 7 tháng 2, 1943 cho chuyến tuần tra thứ sáu, đây là chuyến tuần tra duy nhất mà U-405 đánh chìm được tàu bè đối phương. Nó đã băng qua khe GIUK giữa Iceland và quần đảo Faroe để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland. Vào ngày 28 tháng 2, ở vị trí khoảng về phía Đông mũi Farewell, Greenland, nó đã phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm tàu Liberty Hoa Kỳ SS Wade Hampton , vốn bị tách rời khỏi Đoàn tàu HX-227 và đang trong hành trình từ New York sang Murmansk, vận chuyển 8.000 tấn hàng hóa, bao gồm hai xuồng phóng lôi PT boat (RPT-1 và RPT-3).

Chín ngày sau đó 9 tháng 3, chiếc tàu ngầm lại phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu SC-121, và đánh chìm tàu buôn Na Uy Bonneville , vốn đang trong hành trình từ New York sang Liverpool với hơn 7.000 tấn hàng hóa, bao gồm xuồng đổ bộ LCT HMS LCT-2341, tại tọa độ . Kết thúc chuyến tuần tra, U-405 đi đến cảng St. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 23 tháng 3. Chiếc tàu ngầm chỉ mới rời cảng được hai ngày và vẫn còn đang trong vịnh Biscay khi nó bị một máy bay ném bom Handley Page Halifax thuộc Liên đội 502 Không quân Hoàng gia Anh tấn công. Ba quả bom ném xuống đã khiến chiếc U-boat bị rò rỉ dầu mà không thể sửa chữa, đến mức hạm trưởng của U-405 buộc phải kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 12 tháng 5.

Vào ngày 1 tháng 11, U-405 đụng độ với tàu khu trục Hoa Kỳ ở vị trí về phía Bắc quần đảo Azores, tại tọa độ . Chiếc tàu khu trục đã thả mìn sâu tấn công, buộc chiếc tàu ngầm phải trồi lên mặt nước. Sau đó Borie di chuyển đổi hướng và húc trúng U-405, khiến hai đối thủ tạm thời dính chặt vào nhau, và một cuộc đụng độ kỳ quặc diễn ra. Ở khoảng cách cực gần, chiếc tàu khu trục không thể hạ thấp các nòng pháo và đủ thấp để bắn trúng đối phương, và thủy thủ trên tàu chỉ có một số lượng hạn chế vũ khí nhẹ. Phía bên Đức, khẩu hải pháo trên boong tàu không được trang bị giáp che chắn, nên thủy thủ Đức chịu đựng thương vong khi họ tìm cách vận hành khẩu hải pháo.

Khi hai đối thủ tách được nhau ra, khoảng 35 trong số 49 thành viên thủy thủ đoàn U-405 đã thương vong hay rơi xuống biển. Borie bị hư hại nặng và di chuyển với tốc độ chậm, còn chiếc U-boat vẫn có thể cơ động với tốc độ tương đương nhưng có bán kính xoay vòng hẹp hơn nên dễ dàng né tránh đối thủ. Borie đánh lừa đối phương bằng cách tắt hết đèn, nên U-405 tưởng rằng họ có cơ hội chạy thoát. Khi Borie bật đèn pha trở lại, khoảng cách giữa hai đối thủ đủ rộng, và Borie tấn công mục tiêu bằng hải pháo và mìn sâu, khiến U-405 chết đứng giữa biển và thủy thủ bắt đầu bỏ tàu để lên các bè cứu sinh. Người cuối cùng rời tàu đội mũ sĩ quan. U-405 chìm dần với phần đuôi trước lúc 02 giờ 57 phút, và phát nổ dưới nước, có thể bởi các khối chất nổ được cài đặt để đánh đắm tàu bởi người sĩ quan cuối cùng rời tàu.

Thủy thủ Đức trên các bè cứu sinh bắn pháo sáng ra hiệu, nên thủy thủ trên Borie tin rằng họ ra dấu hiệu cầu cứu, và bắt đầu tiếp cận các bè cứu sinh ở khoảng cách bên mạn trái và chuẩn bị cứu vớt. Thực ra các thủy thủ Đức ra hiệu cho một tàu U-boat khác đang đi trên mặt nước gần đó, và chiếc U-boat trả lời bằng một phát pháo sáng bắn lên. Khi một trinh sát viên bên trên Borie phát hiện một quả ngư lôi đang tiếp cận, chiếc tàu khu trục buộc phải cơ động né tránh bằng cách đâm thẳng vào các bè cứu sinh, và sau đó chạy zig-zag rút lui, từ bỏ ý định cứu vớt những người sống sót. Cả hai phía đều không ghi nhận đã cứu vớt được người nào sống sót, nên toàn bộ 49 thành viên thủy thủ đoàn của U-405 đều đã tử trận cùng con tàu.

"Bầy sói" tham gia

U-405 từng tham gia chín bầy sói:

  • Wrangel (11 – 18 tháng 3, 1942)
  • Strauchritter (2 – 5 tháng 5, 1942)
  • Nebelkönig (27 tháng 7 – 14 tháng 8, 1942)
  • Trägertod (12 – 18 tháng 9, 1942)
  • Boreas (19 tháng 11 – 9 tháng 12, 1942)
  • Neptun (18 tháng 2 – 3 tháng 3, 1943)
  • Westmark (6 – 11 tháng 3, 1943)
  • Siegfried (25 – 27 tháng 10, 1943)
  • Siegfried 1 (27 – 30 tháng 10, 1943)

Tóm tắt chiến công

U-405 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng cùng ba tàu chiến với tổng tải trọng 361 tấn:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-405_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-230_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Rowan_ (DD-405)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Borie_ (DD-215)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Card_ (CVE-11)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-11**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-11**, **CVE-11**, **CVHE-11**, **CVU-11** và **AKV-40**), là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Bogue_ của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Barry_ (DD-248)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
**Trường Đại học Mỏ – Địa chất** (tiếng Anh: _Hanoi University of Mining and Geology_) là một trường đại học đa ngành hàng đầu tại Việt Nam, thuộc nhóm 95 trường đại học hàng đầu