Đáo Ngạn Chi (chữ Hán: 到彦之, ? - 433), tự Đạo Dự, người Vũ Nguyên, Bành Thành là một viên sủng tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Phò tá Vũ đế
Ông là hậu duệ của Đại phu Khuất Đáo nước Sở đời Đông Chu. Khi Lưu Dụ đánh dẹp Tôn Ân, nhờ là đồng hương nên được đi theo, trận nào cũng lập chiến công.
Bọn Lưu Dụ sắp khởi binh chống Hoàn Huyền, nhà Ngạn Chi ở Quảng Lăng, vào lúc sắp lên đường, nghe tin Lưu Đạo Quy đã giết được Hoàn Hoằng ở đó, nhanh chóng quay về, thì Đạo Quy đã vượt sông sang bờ nam. Ông vội vã tìm cách vượt sông, đến được Kinh Khẩu, thì gặp Mạnh Sưởng lưu thủ tại đây, còn Lưu Dụ đã đi Kiến Nghiệp, Sưởng giữ Ngạn Chi ở lại. Khi gặp Lưu Dụ, ông bị trách mắng, không thể tự giải thích, mà Sưởng lại không nói giúp, nên không được gia quan chức.
Năm Nghĩa Hi đầu tiên (405), được bổ làm Trấn quân Hành tham quân. Năm thứ 6 (410), Lư Tuần bức đến kinh thành, Ngạn Chi cùng Đàn Đạo Tế đánh úp quân nhu của nghĩa quân, bị tướng nghĩa quân là Tuân Lâm đánh bại, miễn quan. Sau nhờ quân công được phong Ngận Sơn huyện tử, làm Thái úy Trung binh tham quân. Phiếu kỵ tướng quân Lưu Đạo Liên trấn Giang Lăng, dùng Ngạn Chi làm Phiếu kỵ Tư nghị tham quân, sau đó thăng làm Tư mã, Nam Quận thái thú. Lại theo Lưu Nghĩa Long trấn Bành Thành, được ban chức Sứ trì tiết, Nam Man hiệu úy. Lưu Dụ lên ngôi, là Lưu Tống Vũ đế, được tiến tước làm hầu.
Phò tá Văn đế
Đánh dẹp quyền thần
Ngạn Chi coi giữ Kinh Sở gần 20 năm, rất có uy vọng trong lòng quan dân. Sau khi bọn Từ Tiện Chi làm việc soán nghịch, đón Lưu Nghĩa Long về nối ngôi, tức là Lưu Tống Văn đế. Nghĩa Long lo sợ, muốn lấy ông làm tiền khu, Ngạn Chi nói: "Biết rõ (bọn họ) không hai lòng, nên thuận dòng mà về triều; nếu có gì đắn đo, quân đội này không đủ để trông cậy; lại thêm (muốn) cởi mối hiềm khích này, chẳng phải nên nhìn khắp xa gần ư!" (ý nói Lưu Nghĩa Long nên nhẫn nhịn bọn Từ Tiện Chi một thời gian).
Gặp lúc Ung Châu thứ sử Trử Thúc Độ mất, triều đình sai Ngạn Chi tạm quyền trấn Tương Dương. Bọn Tiện Chi muốn để Ngạn Chi nắm Ung Châu, Đế không cho, triệu về làm Trung lĩnh quân, ủy thác quân – chính sự. Ông từ Tương Dương xuôi dòng về kinh, Kinh Châu thứ sử Tạ Hối đã đến trấn, rất e dè vì Ngạn Chi là tâm phúc của Đế. Ông đến Dương Khẩu, theo đường bộ đi Giang Lăng (châu trị của Kinh Châu), sắp đặt cẩn thận các thứ tặng phẩm, Hối đành mời vào mà tiếp đãi hậu hĩ. Ngạn Chi để lại ngựa và các thứ binh khí tốt, Hối do vậy mà yên lòng.
Năm Nguyên Gia thứ 3 (426), Văn đế chinh thảo Tạ Hối, tiến Ngạn Chi làm Trấn quân. Đài quân ở cù lao bên ngoài Bành Thành giao chiến thất thế, mọi người muốn lui về Hạ Khẩu, ông không chịu. Gặp lúc Đàn Đạo Tế đến hội quân, Hối bèn thua chạy. Bình xong Giang Lăng, Ngạn Chi nhân đó được làm Giám Kinh Châu châu phủ sự, đổi phong Kiến Xương huyện công. Mùa thu năm ấy, được thăng làm Nam Dự Châu thứ sử, giám 6 châu chư quân sự, trấn Lịch Dương.
Tấn công Bắc Ngụy
Đế chịu ơn của Ngạn Chi rất nhiều, muốn gia chức Khai phủ, nên trước hết lệnh cho ông lập công. Năm thứ 7 (430), sai Ngạn Chi chỉ huy bọn Đốc là Vương Trọng Đức, Trúc Linh Tú, Doãn Xung, Đoạn Hoành, Triệu Bá Phù, Trúc Linh Chân, Dữu Tuấn Chi, Chu Tu Chi tấn công Bắc Ngụy, từ Hoài nhập Tứ. Thế nước Tứ Thủy rất kém, cả ngày đi được 10 dặm, từ tháng 4 đến tháng 7, mới đến được huyện Tu Xương thuộc quận Đông Bình. Quân Ngụy ở Hoạt Đài, Hổ Lao, Lạc Dương đều chạy. Ngạn Chi lưu Chu Tu Chi thủ Hoạt Đài, Doãn Xung thủ Hổ Lao, Đỗ Ký thủ Kim Dung. Tháng 10, quân Ngụy nhắm vào thành Kim Dung, rồi đến Hổ Lao. Đỗ Ký bỏ trốn, Doãn Xung tử trận. Quân Ngụy tiếp tục tiến đến Hoạt Đài. Bấy giờ băng trên Hoàng Hà sắp kết, lương thực lại hết, mắt của Ngạn Chi trước đã có bệnh, lúc này phát ra, tướng sĩ có dịch bệnh, bèn lui quân.
Khi xưa sai Ngạn Chi cất quân, của cải thịnh vương, nay trở về, tiêu tốn gần sạch, kho tàng trống rỗng. Văn đế sai Đàn Đạo Tế cứu Hoạt Đài, bắt Ngạn Chi hạ ngục, miễn quan. Mùa hạ năm sau (431), ông được khởi dụng làm hộ quân.
Năm thứ 9 (432), được ban phong ấp, cố từ. Năm sau (433), mất, được khôi phục những hộ ấp trước đây, thụy là Trung công. Năm Hiếu Kiến thứ 3 (456), có chiếu cho thờ Ngạn Chi trong miếu của Văn đế.
Con lớn Nguyên Độ làm đến Ích Châu thứ sử. Con nhỏ Trọng Độ được kế tự, làm đến Phiếu kỵ tòng sự trung lang. Anh em đều có tài năng, nhưng đều mất sớm. Con Trọng Độ là Huy được tập tước Kiến Xương công.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đáo Ngạn Chi** (chữ Hán: 到彦之, ? - 433), tự **Đạo Dự**, người Vũ Nguyên, Bành Thành là một viên sủng tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
**Viên Hộ Chi** (chữ Hán: 垣护之; bính âm: Yuan Huzhi; 395 – 464), tên tự là **Ngạn Tông**, nguyên quán Hoàn Đạo, Lược Dương, là tướng lĩnh nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.
**Chu Tu Chi** (chữ Hán: 朱修之) là tướng nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy và phục vụ cả Nam triều lẫn Bắc triều giữa
**Người Dao** (ngoài ra còn có các tên gọi khác: **Dìu Miền**, **Miền**, các phân hệ như: _Lù Gang_, _Làn Tẻn_, _Đại Bản_, _Tiểu Bản_, _Cốc Ngáng_, _Cốc Mùn_, _Sơn Đầu_ v.v) là một dân
Đây là trang liệt kê **danh sách đảo ở biển Việt Nam**. Biên tập dựa theo Bản đồ tỷ lệ 1:50.000 có đối chiếu với các văn bản hành chính hiện có vào tháng 8/2020.
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Lục Ngạn** là một huyện miền núi thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Lục Ngạn nằm ở phía đông tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 40 km về phía đông,
nhỏ|phải|Người Hoa ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 Người gốc Hoa sống tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở quận 5, quận 6, quận 8, quận 10 và quận 11. Theo
**Đào Khản** (chữ Hán: 陶侃, 259 – 334), tự **Sĩ Hành**, người Bà Dương hay Tầm Dương, là danh tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Cha của Đào Khản
**Đào Hoàng** (chữ Hán: 陶璜), tự **Thế Anh** (世英), là đại tướng dưới triều Đông Ngô và Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Giành lại Giao châu Tấn thư không ghi rõ ràng
**Tư Mã Sở Chi** (, 390 – 464) là đại tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Tư Mã Sở Chi có tên tự là Đức
phải|nhỏ|Đường Nguyễn Trãi đoạn thuộc [[Phường 14, Quận 5 ]] **Đường Nguyễn Trãi** là một tuyến đường tại Thành phố Hồ Chí Minh, nối từ nút giao đường Hồng Bàng – Nguyễn Thị Nhỏ (giáp
**Đường Lý Tự Trọng** là một con đường tại Quận 1, trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, đi từ ngã sáu Phù Đổng đến đường Tôn Đức Thắng. ## Lịch sử trái|nhỏ|Góc đường De
**Trương Ngạn Trạch** (? - 27 tháng 1, 947) là một vị tướng thời kì Ngũ Đại Thập Quốc phục vụ dưới triều Hậu Đường và Hậu Tấn và Nhà Liêu. Ông bị các sử
**Lâm Ngạn Tuấn** (, Tiếng Anh: Evan Lin, Bính âm Hán ngữ: _Línyànjùn_, sinh ngày 24 tháng 8 năm 1995) là một nam ca sĩ và diễn viên người Đài Loan hoạt động ở Trung
**Ngô Ngạn** (chữ Hán: 吾彦), tên tự là **Sĩ Tắc**, người huyện Ngô, quận Ngô , là tướng lĩnh nhà Đông Ngô cuối thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Về sau ông quy
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Nhĩ Chu Ngạn Bá** (chữ Hán: 尒朱彦伯, ? – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh
**Nguyễn Trung Ngạn** (chữ Hán: 阮忠彥;1289–1370), tự là **Bang Trực**, hiệu là **Giới Hiên**, là một nhà chính trị, một đại thần có tài của nước Đại Việt thời nhà Trần, được xếp vào hàng
**Từ Ngạn Nhược** (, ? - 901), tên tự **Du Chi** (俞之), là một quan lại triều Đường, từng giữ chức _Đồng bình chương sự_ (tức tể tướng) dưới triều đại của Đường Chiêu Tông.
**Ân Ngạn quân** (Hangul: 은언군, Hanja: 恩彥君, 29 tháng 5, 1754 - 30 tháng 6, 1801), tên thật là **Lý Nhân** (이인/李䄄), tự **Minh Hưng** (명흥), là một Hoàng thân nhà Triều Tiên trong lịch
**Dương Ngạn Địch** (chữ Hán: 楊彥迪, ?-1688), là một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh, tổng binh của nhà Minh Trịnh ở Long Môn (龍門), Khâm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1679, ông cùng
Nha khoa Thùy tự hào là trung tâm nha khoa uy tín nhất Lục Ngạn, với đội ngũ bác sĩ, nha sĩ giàu kinh nghiệm, tốt nghiệp các trường Đại học chính quy Y Hà
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Hột Thạch Liệt Chí Ninh** (chữ Hán: 纥石烈志宁, ? – 1172), tên Nữ Chân là Tát Hạt Liễn, người Thượng Kinh , tướng lãnh nhà Kim. Ông có công trấn áp khởi nghĩa của người
**Đoàn Chí Tuân** (1855-1897), hay **Đoàn Đức Mậu**, hiệu là **Bạch Xĩ**, là nhà thơ và là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 tại
**Mao Ngạn Anh** (; 24 tháng 10 năm 1922 – 25 tháng 11 năm 1950) là con trai cả của Mao Trạch Đông và Dương Khai Tuệ. Được đào tạo tại Moskva và là một
Vị trí dãy Hải Ngạn **Dãy núi Hải Ngạn** (), là một dãy núi nằm ở vùng ven biển phía đông của đảo Đài Loan và chạy qua ranh giới giữa hai huyện Hoa Liên
**Đàn Đạo Tế** (chữ Hán: 檀道济; ?-436) là tướng nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc, người Kim Hương, Cao Bình (nay là Trấn Giang, Giang Tô, Trung Quốc). ## Công thần khai quốc
**Đàm Tuấn Ngạn** (Tên tiếng Anh: Shaun Tam Chun Yin, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1980), nam diễn viên và người dẫn chương trình Hong Kong, những năm đầu chủ yếu ở Trung Quốc
**An Hiệt** (chữ Hán: 安颉, ? – 431), sinh quán Liêu Đông, là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công bắt sống Hạ đế Hách Liên Xương. ## Xuất
**Vương Ý** (chữ Hán: 王懿, 367 – 438) hay **Vương Trọng Đức** (王仲德) là tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Quang Minh - Hồng Đào** là một bộ đôi nghệ sĩ hài kịch người Việt Nam nổi tiếng ở hải ngoại và trong nước hoạt động từ năm 1995 cho đến năm 2019 thì tách
Lâm Xuyên Liệt Võ Vương **Lưu Đạo Quy** (chữ Hán: 劉道規, 370 – 25 tháng 7, 412), tên tự là **Đạo Tắc**, người Tuy Lý, Bành Thành , tướng lãnh nhà Đông Tấn, hoàng thân
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
**Nam sử** (南史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử của Trung Quốc do Lý Đại Sư viết từ khi nhà Lưu Tống kiến quốc năm 420 tới khi nhà Trần diệt vong
**Nguyễn Đình Hồng Đào** (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1962), thường được biết đến với nghệ danh **Hồng Đào**, là một nữ diễn viên người Mỹ gốc Việt. ## Tiểu sử Nguyễn Đình Hồng
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới
**Trương Giản Chi** (tiếng Trung: 張柬之, 625 - 706) là một đại thần nhà Đường cũng như triều đại Võ Chu do Võ Tắc Thiên lập ra. Ông được một vị quan có tiếng là
**Giao Chỉ** (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do