✨Đạn xe tăng

Đạn xe tăng

Bài này viết về các loại đạn chính mà xe tăng thường dùng.

Những loại đạn xe tăng đầu tiên

APERS (anti-personnel): Đạn chống bộ binh

Đây là loại đạn đầu tiên mà các xe bọc thép và xe tăng sử dụng. Đạn này vẫn được Nga sử dụng rộng rãi, nhưng phương Tây không sử dụng nhiều. Ví dụ, đạn hộp bi 3Sh-7 được Liên Xô sản xuất nặng 23 kg, chứa 3,4 kg thuốc nổ RDX trộn với nhôm, khi nổ bắn ra 4700 - 4800 mảnh có trọng lượng 1,26g với vận tốc 1000 m/s. Sau này, các loại đạn này được bổ sung kíp nổ điện tử V-429E trong hệ thống Ainet. Khi đạn được lắp vào súng, một hệ thống điện tử sẽ lập trình cho ngòi nổ, đạn sẽ nổ theo khoảng cách yêu cầu. Điều này rất quan trọng khi bắn máy bay.

Solid AP (Armour Piercing): Đạn xuyên giáp đặc

[[Tập tin:ArmorPiercingShell.png|nhỏ|Hình vẽ cắt bổ một quả đạn AP. 1 kim loại mềm nhẹ. 2 hợp kim thép cứng khoan mục tiêu. 3 liều nổ phá. 4 ngòi. 5 đai đạn (để miết vào rãnh xoắn).]] Ban đầu, xe tăng bắn đạn HE (High Explosive: Nổ Mạnh) như pháo tự hành tấn công. Sau đó, xe bắn đạn xuyên bằng thép đúc, liều nổ phá giảm đi, khối lượng đạn nhỏ để có đường đạn tốt. Đạn này sau phủ lớp kim loại mềm ở mũi để giảm phân tán lực xuyên của giáp nghiêng. Những cải tiến tiếp theo gồm phủ một lớp kim loại nhẹ, mềm, dày, có mũi nhọn ở đầu, đằng sau là phần hợp kim thép cứng, đưa trọng tâm đạn ra sau, làm đường đạn bắn từ nòng xoắn tốt hơn.

Đạn được dùng rộng rãi cho các loại đại bác xuyên giáp trong Thế chiến 2. Đạn được người Đức phát minh và sử dụng đầu tiên trong Hải quân đầu thế kỷ XIX.

APCR (Armour Piercing Composite Rigid): Đạn xuyên giáp vật liệu phức hợp cứng

Trong trận Moscow (1941), lần đầu tiên xuất hiện đạn lõi tỷ khối lớn, do quân Đức sử dụng: một thanh wolfram được bọc trong vỏ kim loại mềm, khi gặp giáp, vỏ mềm tụt ở lại ngoài giáp. Người Nga tìm thấy đạn này trong xác xe sau trận đánh. Ngay lập tức, toàn thế giới tổ chức ngăn chặn nguồn cung wolfram của Đức, chủ yếu từ Trung Quốc và Nam Mỹ. Đạn có khối lượng nhỏ hơn đạn AP, nhưng có sơ tốc cao hơn và đường đạn tốt hơn. Tỷ khối lớn cho phép sức xuyên xe tăng lớn hơn. So với đạn dưới cỡ nòng sau này, đạn APCR khi bay trong không khí mang theo vỏ bằng kim loại mềm nhẹ nên dễ mất động năng nhanh.

APCNR (Armour-piercing, composite non-rigid): Đạn xuyên giáp phức hợp không cứng

Trong Thế chiến 2, cũng có súng chống tăng nhỏ nòng nón, bắn đạn dưới cỡ nòng đơn giản. Đạn có lõi mật độ cao, nhưng vỏ mềm, đạn sẽ bị tóp nhỏ trong nòng, điều này làm giảm đường kính đạn. Nhược điểm là không tương thích với đại đa số pháo có nòng hình trụ, ngoài ra nòng chóng hỏng, không thể tăng động năng đầu đạn.

Ví dụ, "Littlejohn Adaptor" là đạn tóp nhỏ nòng của quân Anh dùng cho pháo QF 2 pounder (40 mm).

Đạn xe tăng hiện nay

HE (High Explosive): Đạn nổ mạnh, trái phá

High Explosive còn gọi là đạn nổ mạnh, sử dụng để bắn sập công trình. Đạn có vỏ thép tốt để xuyên vào trong mục tiêu mới nổ, không vỡ khi va đập. Đạn có 3 chế độ: đợi nổ, chạm mặt mục tiêu nổ (xuyên vào trong bê tông chừng 1 - 2 mét mới nổ) và xuyên sâu mới nổ. Ba chế độ đó dùng cho các loại công trình khác nhau. Mảnh đạn có sức sát thương lớn. Có nhiều loại đạn kết hợp giữa APERS và HE, gọi là HE-FRAG.

HEAT (High Explosive Anti Tank) Đạn chống tăng dùng thuốc nổ mạnh, đạn lõm

nhỏ|phải|Đạn HEAT-FS 3BK29 125mm. Nga, Ucraina

Nhờ những chất nổ mới, ổn định và mạnh như HMX, người ta hoàn thiện đạn lõm, HEAT. Đạn lõm sơ tốc thấp, đường đạn cong, phân tán mạnh nhưng khi phát nổ nó không tán rộng sức sát thương ra xung quanh như trái phá và sức xuyên không phụ thuộc nhiều vào tốc độ gặp giáp. Trong thế chiến 2, đạn này chưa được sử dụng bắn từ nòng xe tăng do thuốc nổ kém và không chống được phát nổ ngoài ý muốn.

Đạn HEAT-FS là đạn ổn định cánh đuôi. Đạn BK Nga các đời khi ra khỏi nòng cánh đuôi xòe ra. Các đuôi đặt hơi xoáy như đạn cối hay APFSDS bắn từ nòng trơn để bù sai số chế tạo. Đạn HEAT Nga phát triển hơn các nước khác, hiện đã sử dụng rộng rãi liều nối dài đặt ở đầu đạn HEAT chống giáp phản ứng nổ ERA, trong khi các nước khác mới bắt đầu áp dụng.

Đạn HEAT có sơ tốc thấp và tản mát mạnh so với APDSFS. Nhưng đạn không giảm sức xuyên theo tầm. Đặc biệt khi dùng chống công trình, công sự thì đạn lợi thế hơn APDSFS. Phương Tây kết hợp đạn chống bộ binh và đạn xuyên lõm.

ATGM (Anti Tank Guided Missile) tên lửa chống tăng có điều khiển

phải|liên_kết=Special:FilePath/T90_6s.jpg

Từ thập niên 1960 có nhiều xe tăng bắn đạn tên lửa có điều khiển từ nòng chính mang đầu xuyên lõm ATGM. Đạn này cần hệ thống dẫn bắn và ổn định tháp pháo hiện đại. Đạn tên lửa có điều khiển dễ gây nhiễu, dễ bắn chặn bằng APS và dễ giảm sức xuyên bởi ERA. Hiện nay, hầu hết các đầu nổ lõm Nga và một số của phương Tây có hai tầng để chống lại ERA. Đạn cũng có khả năng sát thương lớn. Khi bắn được thì đạn có độ chính xác rất cao, ngày nay, đây là loại đạn duy nhất đưa tầm diệt mục tiêu thiết giáp hạng nặng đang chuyển động lên 4, 5 km và còn hơn nữa. Một số xe tăng ngày nay cũng được trang bị thêm các ổ phóng ATGM ngoài nòng chính, tăng khả năng đối phó với các mục tiêu phức tạp và dùng nhiều loại đạn, khí tài.

APDS (Armour Piercing Discarding Sabot) Đạn xuyên dưới cỡ

Đạn lõi cứng này sau trở thành đạn guốc-sabot, đạn xuyên giáp xuất hiện lần đầu năm 1944 trong quân Anh. Đạn là một mũi tên xuyên (KE, kinetic energy penetrator) có đường kính nhỏ hơn cỡ nòng, các guốc đỡ đạn trong nòng văng ra sau khi bắn, đạn không mang liều nổ mà chỉ có một liều cháy dẫn đường. Trong những năm 1960-1970, người ta hoàn thiện đạn sabot, sử dụng carbide-vonphram và DU. Carbide-vonphram là một trong những chất cứng nhất chế tạo được, tỷ khối 15,8 (thép là 7,8). Đạn Carbide-vonphram đạt tỷ khối trung bình 13,5. Đạn DU có vỏ là hợp kim 3/4 titan, 1/4 uran, trong là uran nén tỷ khối chung đạt đến 19,5, những đạn có nhiều lớp như vậy được goi là composite. Các đạn súng nhỏ không nén được như đạn tăng sử dụng các hợp kim staballoy gốc DU, như 99.25%DU-0.75%Titan. Một số hợp kim không gỉ cứng dùng làm đạn nhỏ như AG17 có 20.00% măng gan, 17.00% crôm, 0.30% silic, 0.03% carbon, 0.50% ni-tơ, and 0.05% mô-luýp-đen, còn lại là kim loại khác. Đạn này có khả năng xuyên ổn định khi gặp các loại giáp phức tạp, sơ tốc rất lớn (trên 1400 m/s), đường đạn tốt nhưng sức xuyên giảm mạnh theo tầm bắn. Các tăng hiện đại chỉ đấu sabot ở mặt trước được tầm dưới 2 km.

Hiện tại, đạn phát triển theo hướng tăng độ cứng. DU-Ti được thay bằng các hợp kim DU+ kẽm+ crôm +nicken. APDS-FS là đạn xuyên nhưng có sát thương, có thể bằng một liều nổ nhỏ đi theo. APDS-T là đạn xuyên có dẫn đường. APDS-DU sau khi xuyên vào trong xe tan thành bột và cháy cho nhiệt lượng cao, sát thương lớn. Đạn APDS được chế tạo và sử dụng nhiều từ sau Thế chiến 2 đến thập niên 1960. Khi nâng năng lực của đại bác nòng dài bắn đạn xuyên, đạn APDS mài thành nòng dữ dội, giảm tuổi thọ. Đồng thời, do đường kính KE nhỏ nên quán tính quay không đảm bảo đường đạn tốt. Ngày nay chỉ được dùng cho xe tăng cổ, các loại pháo chống tăng cổ.

APFSDS (Armour Piercing Fin Stabilised Discarding Sabot) Đạn xuyên thoát vỏ ổn định cánh đuôi

nhỏ|phải|Một viên đạn APFSDS ở thời điểm tách guốc, liều dẫn đường hoạt động.

Do thanh xuyên KE có đường kính nhỏ và dài nên quán tính quay nhỏ, hiệu ứng con quay đạt được trong không khí nhỏ, người ta chuyển sang ổn định cánh đuôi thay cho ổn định con quay. Đạn APFSDS bắn từ súng nòng trơn, ổn định cánh đuôi, cánh đuôi có thể đặt hơi chéo, làm đạn quay chậm để bù các sai số chế tạo, đường đạn tốt hơn. Đây là đạn thanh xuyên chính được dùng hiện nay. Đạn cũng được bắn từ nòng xoắn, lõi cứng quay được trong guốc, nên không quay khi đi trong nòng. Đạn có sabot được dùng lần đầu trong súng phòng không, không phải để xuyên giáp, Đức hồi Thế chiến 2.

Đạn APFSDS-DU M829A1 120mm Mỹ, biệt danh "Silver Bullet", đạn bạc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bài này viết về các loại đạn chính mà xe tăng thường dùng. ## Những loại đạn xe tăng đầu tiên ### APERS (anti-personnel): Đạn chống bộ binh Đây là loại đạn đầu tiên mà
**Xe tăng Iosif Stalin** (hay **Xe tăng IS**), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**KV** là tên một dòng tăng hạng nặng lấy tên viết tắt của nhà chính trị-quân sự nổi tiếng Liên Xô Kliment Voroshilov. Dòng xe KV phục vụ cho quân đội Liên Xô từ trước
**Zulfikar** (tiếng Ba Tư: ذوالفقار) là dòng xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ thứ hai của Iran, Chuẩn tướng Mir-Younes Masoumzadeh, Phó chỉ huy lực lượng mặt đất đã cho tiến hành nghiên
**Xe tăng Centurion** được giới thiệu năm 1945, là xe tăng chủ lực của quân đội Anh giai đoạn sau Thế chiến thứ hai. Nó được xem là một trong những thiết kế tăng thành
**Mark IV** là một loại xe tăng của Anh sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Được sản xuất vào năm 1917 dựa trên những phát triển từ lớp xe tăng Anh đầu
thumb|300x300px|Xe tăng hạng nhẹ M8 với pháo 105 mm **Tăng hạng nhẹ** là một trong các biến thể đầu tiên của xe tăng, được thiết kế cho việc di chuyển nhanh và thường dùng trong
thumb|Đặc điểm chính của Black Eagle **Xe tăng Black Eagle** ("Đại bàng đen") (tiếng Nga: Чёрный Орёл, Chyorny Aryol, hay Obyekt 640) là mẫu xe tăng Nga đang được thử nghiệm và chỉ chuyên dùng
thumb|[[T-90, mẫu xe tăng chủ lực mạnh nhất do Nga sản xuất hiện nay]] **Xe tăng chiến đấu chủ lực** (thuật ngữ tiếng Anh: _main battle tank_, **MBT**) là một phân loại xe tăng từ
**Xe tăng kiểu 63** (Type 63) là một xe tăng do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất tại nhà máy 615 Thiểm Tây từ năm 1963. Mẫu xe tăng này được viện kĩ thuật
**Sabra** là một loại xe tăng do tập đoàn Israel Military Industries (viết tắt IMI hay Taas) của Israel phát triển tại Nhà máy sản xuất vũ khí hạng năng Slavin ở Ramat Hasharon; loại
**Xe tăng Mk III**, còn gọi là **Valentine**, là một loại xe tăng bộ binh được sản xuất tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong Thế chiến thứ hai. Hơn 8.000 chiếc
**Xe tăng kiểu 90-II** (90-II式戦車) là xe tăng chủ lực do Trung Quốc chế tạo với kỹ thuật được phát triển chung bởi hai nước Trung Quốc và Pakistan. Ban đầu xe được thiết kế
- Có nghĩa là "Xe bọc thép hạng nhẹ loại 94", còn được gọi là TK, Viết tắt của Tokushu Keninsha, nghĩa đen là "Máy kéo đặc biệt". Nó là một loại khinh tăng tăng
**Xe tăng chiến đấu Mark V** là một phiên bản cải tiến của dòng xe tăng Mark IV, được triển khai vào năm 1918 và tham chiến khoảng một tháng trong đội quân đồng minh
**Xe tăng hạng nặng M103** phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Cho đến khi M1 Abrams được phát triển trong giữa những năm
Xe tăng **Type 69** () và **Type 79** () là xe tăng chủ lực của Quân đội Trung Quốc. Cả hai đều là xe tăng chủ lực phát triển dựa trên xe tăng hạng trung
Xe tăng hành trình **Mk VI**, hoặc **A15 Crusader**, là một trong loại xe tăng hành trình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong giai đoạn đầu Thế chiến thứ hai và
**Ramses II** là một phiên bản hiện đại hóa sâu xe tăng chiến đấu chủ lực T-55 được thiết kế và sử dụng bởi các Lực lượng vũ trang Ai Cập. Một chiếc T-54 duy
**Tosan**, còn được viết là **Towan** (có nghĩa là _Ngựa hoang_), là một xe tăng hạng nhẹ của Iran. Được sản xuất vào năm 1997, nhưng chỉ một số lượng nhỏ sản xuất. Tosan được
Dưới đây là những thiết kế, kiểu dáng xe tăng được phát triển từ lâu. Chúng là tiền thân cho những chiếc xe tăng hiện đại bây giờ. ## Thời cổ nhỏ|phải|Mô hình theo bản
**Type 80** () và **Type 88** () là dòng xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ hai của Trung Quốc. Chúng còn có tên định danh **ZTZ80** & **ZTZ88**. ## Lịch sử Những năm
**M6** là một thiết kế xe tăng hạng nặng của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng được sản xuất với số lượng ít và chưa từng tham chiến. ## Phát triển thế=T1
thumb|Một chiếc tăng siêu nhẹ [[TKS trong bảo tàng **Bảo tàng Quân đội Ba Lan**.]] **Khinh tăng** hay **tankette** là các phương tiện chiến đấu bộ binh, với kích thước như một chiếc xe ôtô
**Xe tăng hạng nhẹ M8** (**M8 armored gun system-xe bọc thép mang pháo** (**M8 AGS**)), đôi khi còn được biết với tên gọi **Buford**, là một loại xe tăng hạng nhẹ của Mỹ được phát
**Xe tăng Bộ binh Mk I** (hay **Matilda I** hoặc **A11**) là loại xe tăng bộ binh của Anh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Không nên nhầm lẫn với mẫu Xe tăng sau
**Sabre** là tên một loại phương tiện bọc thép do thám được lắp ráp dựa trên khung tăng Scorpion. Nó được trang bị thêm một pháo 30 mm-lấy từ xe bọc thép do thám Fox và
**Tankoviy biathlon** (), còn gọi là **Xe tăng hành tiến**, **đua xe tăng** hay **tank biathlon** là một nội dung thi đấu trong Hội thao quân sự quốc tế (Army Games) hàng năm. Đây là
Tên lửa điều khiển chống tăng 9K115 _Metys_ của [[Quân đội Ba Lan]] Tên lửa [[PARS 3 LR kiểu bắn-và-quên của Quân đội Cộng hòa Liên bang Đức.]] **Tên lửa chống tăng có điều khiển**
Tổ hợp chiến xa cơ sở **Bumerang** () là một hệ thống xe bệ thiết giáp bánh hơi được thiết kế cho Lục quân Nga. Hệ thống xe bệ này là cơ sở để lắp
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**T-14 Armata** (, Định danh GBTU: **Объект 148**) là một loại xe tăng chủ lực thế hệ thứ tư do Nga sản xuất, phục vụ trong lực lượng Lục quân Nga từ năm 2016. Nó
phải|Đầu đạn K tiêu chuẩn (7.9x57mm IS), lõi xuyên bằng thép lộ ra ở phía sau tạo thành đuôi đầu đạn thuôn. phải|Súng trường chống tăng [[PTRS-41 của Liên Xô.]] phải|Súng trường chống tăng [[Pz.B.38/39|Pz.B.39
**Xe chiến đấu bộ binh** (tiếng Nga: Боевая машина пехоты - BMP; tiếng Anh: _Infantry fighting vehicle_ - IFV), cũng được biết đến với tên gọi **Xe chiến đấu bộ binh cơ giới**, là một
**Tổ hợp Chiến đấu Đa năng "Armata"** () là một hệ thống xe bệ bánh xích quân sự hạng nặng mô-đun thế hệ tiếp theo tiên tiến của Nga. Hệ thống xe bệ này là
**Đạn pháo** là loại đạn được bắn từ các loại pháo để tiêu diệt các mục tiêu như sinh lực, phương tiện, trang bị; phá hủy nhà cửa, các công trình quân sự, sở chỉ
Xe tăng M3 là một chiếc xe tăng hạng trung của Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ II. Tại Anh, xe tăng được gọi bằng hai cái tên dựa trên kết
nhỏ|Mặt cắt ngang của một viên đạn, với cấu tạo bao gồm: 1 - Đầu đạn; 2 -Vỏ đạn; 3 - [[Thuốc súng; 4 - Đế tròn; 5 - Kíp nổ (ngòi kích nổ). |250x250px]]
phải|nhỏ|Hai chiếc PTHCT M10 của quân [[Mỹ tại Pháp]] **Pháo chống tăng** (tiếng Anh: **tank destroyer** hay **tank hunter**) là một loại chiến xa được thiết kế riêng để chống lại các phương tiện cơ
**Panzerjäger Tiger Ausf. B Jagdtiger (Sd. Kfz. 186)** là tên một loại pháo tự hành hạng nặng thuộc sư đoàn Jagdpanzer phục vụ lực lượng quân đội Đức Quốc xã từ năm 1944 đến cuối
**Súng trường chống tăng Boys** (Tiếng Anh:Boys anti-tank rifle, thường được gọi ngắn gọn là "Boys") là súng trường chống tăng 13,9mm do Anh Quốc thiết kế. Súng có 3 phiên bản chính: Mk.I nguyên
thumb|upright=1.35|Bản sao lựu đạn Thế chiến II trưng bày **Lựu đạn** là một vũ khí vỏ cứng nhỏ thường được ném bằng tay (còn gọi là **lựu đạn cầm tay**), nhưng cũng có thể chỉ
thumb|[[Xe lửa bọc thép Hurban|Đoàn tàu bọc thép _Hurban_ nằm ở Zvolen, Slovakia. Đây không phải là bản gốc mà là một bản sao được sử dụng trong một bộ phim. Chỉ có hai toa
**Bảo tàng Đại bàng trắng** () là một bảo tàng quân sự Ba Lan nằm ở thị trấn Skarżysko-Kamienna ở trung tâm Świętokrzyskie Voivodeship, mở cửa năm 1969. ## Viện bảo tàng Bảo tàng có
Pháo chống tăng MT-12 100 mm của Liên Xô thời hậu chiến **Pháo chống tăng** (tiếng Anh: _Anti-tank gun_) là một loại pháo được thiết kế với chức năng tiêu diệt xe tăng và các
**Đạn K** (_Patrone S.m.K_ - _Patrone Spitzgeschoss mit Kern_) là phiên bản đặc biệt của đạn 7.92x57mm Mauser có đầu đạn lõi làm bằng thép có độ cứng rất cao. Nó được thiết kế để
Hình về pháo chống tăng Sprut 125 ly. **2A45 _Sprut-A**_, **2A45M _Sprut-B_** và **2S25 _Sprut-SD**_ (phân loại của NATO - _Squid_) là một dòng pháo chống tăng nòng trơn 125 ly do Liên Xô sản
**Chó chống tăng** ( _sobaki-istrebiteli tankov_ hoặc _protivotankovye sobaki_; hay _Hundeminen_, "mìn chó") là những con chó được huấn luyện để có thể mang thuốc nổ đến chỗ xe tăng, phương tiện chiến đấu bọc