✨Xe tăng chủ lực Type 80/88

Xe tăng chủ lực Type 80/88

Type 80 () và Type 88 () là dòng xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ hai của Trung Quốc. Chúng còn có tên định danh ZTZ80 & ZTZ88.

Lịch sử

Những năm 1970 xe tăng chiến đấu chủ lực chiếm phần lớn trong trang bị Lục quân Trung Quốc là Type 59, một phiên bản copy của xe tăng hạng trung T-54, đã trở nên lỗi thời so với các loại xe tăng của Liên Xô và phương Tây. Ngay cả khi đó, Type 69 hầu như không thể đáp ứng được các yêu cầu của các nước khách hàng xuất khẩu. Quá trình phát triển xe tăng tiếp theo đã bắt đầu và dẫn đến các nguyên mẫu Type 80 và xe tăng Al-Khalid.

Type 80 và Type 85

Xe tăng Type 80 bắt đầu được phát triển vào năm 1978, dựa trên nền tảng thu được trong quá trình phát triển xe tăng Type 69. Quá trình phát triển diễn ra tại Nhà máy số 617 và Viện 201, Nhà máy số 447 và 616 cũng tham gia. Đây là kiểu xe tăng chiến đấu chủ lực đầu tiên của Trung Quốc. Xe tăng Type 80 chỉ dừng ở nguyên mẫu mà không được sản xuất loạt, nhưng nó là nền tảng cho sự ra đời của dòng xe tăng tiên tiến hơn như Type 80-I, Type 80-II và Type 85. Xe tăng Type 80 sử dụng tháp pháo trang bị cho xe tăng Type 79 nhưng có giáp trước dày hơn. Tuy nhiên ban đầu xe tăng Storm vẫn không nhận được sự quan tâm của các khách hàng tiềm năng, dẫn đến một loạt các cải tiến bảo gồm thay thế động cơ 730 hp bằng động cơ 800 hp và sử dụng hộp số bán tự động. Những cải tiến đã nâng cấp Type 85 thành Type 85-II/Storm-II. The Type 85-II và đã gây sự chú ý của Pakistan và cuối cùng việc xuất khẩu xe tăng được thực hiện với tên gọi Type 85-IIAP/Type 85-IIM.

Thiết kế

Tổng quan

Tổng công trình sư thiết kế xe tăng Type 80 là Fang Wei Xian, cũng là người đã đảm nhận thiết kế xe tăng Type 69 và dòng xe tăng Type 90.

Xe tăng Type 80 là sự kết hợp của khung gầm xe tăng Type 69/79 theo kiểu Liên Xô với công nghệ của phương Tây. Giống như dòng Type 69, ban đầu thiết kế của Type 80 có tháp pháo dạng bán cầu tương tự như xe tăng T-54/55. Một điểm tương đồng khác là người lái ngồi ở phần trước bên trái của thân xe. Tuy nhiên, Type 80 sử dụng pháo L7 sản xuất theo License tại Trung Quốc thay vì pháo 100 mm D-10 Liên Xô.

Dòng xe tăng Type 80 đánh dấu bước chuyển mình lớn của xe tăng do Trung Quốc chế tạo. Bắt đầu từ Type 85, chiếc xe tăng đầu tiên của Trung Quốc sử dụng tháp pháo kiểu hàn cho phép dễ dàng sử dụng giáp phức hợp.

Vũ khí phụ cho tất cả các biến thể đều giống nhau, bao gồm một súng máy hạng nặng Kiểu 59 12,7 mm gắn trên nóc tháp pháo và một súng máy đồng trục Kiểu 59 7,62 mm.

Xe tăng Type 88 có thêm cải tiến hệ thống điều khiển hỏa lực Type 37A. Type 37A tích hợp kính ngắm của pháo thủ với kính ngắm ngày, kênh nhìn đêm thụ động và máy đo khoảng cách laser. Kính ngắm khẩn cấp ban ngày trên Type 80 được giữ nguyên. Hệ thống kiểm soát hỏa lực mới có máy tính đạn đạo cải tiến, hệ thống liên lạc vô tuyến mới, bộ ổn định 2 trục, phần mềm tự chẩn đoán và thiết bị nhìn đêm thụ động thế hệ thứ hai cho lái xe và pháo thủ.

Xe tăng Type 88B và Type 88A được trang bị hệ thống kiểm soát hỏa lực ISFCS-212 cải tiến, với lái xe, pháo thủ và chỉ huy đều có thể tiếp cận các thiết bị nhìn đêm thụ động thế hệ thứ 2. Kính ngắm của pháo thủ được ổn định. Type 88A và phiên bản Type 88B sau này có kính ngắm của pháo thủ được thay thế bằng các thiết bị ảnh nhiệt.

Bảo vệ

Kể từ Type 80, xe tăng đã được bảo vệ bằng các tấm giáp phức hợp gắn phía trước tháp pháo và giáp váy phức hợp cao su/kim loại. Xe tăng sử dụng trong nước sẽ có tên gọi Type riêng hoặc hậu tố "I" như giải thích bên dưới.

Type 80

;Type 80/Type 80-I

;Type 80-II

Type 85/Storm

;Type 85-I ;Type 85-II

;: 268 Type 85-IIAP .

Đang được nâng cấp lên chuẩn Type-85UG/T-85UG. ;: 10 Type 85-II-M (Al-Bashir) . ;: ~5 Type 85-II-M nhận vào năm 2008.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Type 80** () và **Type 88** () là dòng xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ hai của Trung Quốc. Chúng còn có tên định danh **ZTZ80** & **ZTZ88**. ## Lịch sử Những năm
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
**Xe tăng chủ lực kiểu 96** (tiếng Trung: 96式主战坦克) là loại xe tăng chủ lực do Trung Quốc độc lập chế tạo. Xe được đưa vào sử dụng trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**M1 Abrams** là xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ thứ ba của Hoa Kỳ, được thiết kế bởi Chrysler Defense (nay là General Dynamics Land Systems), tên xe được đặt theo tên tướng
**Type 88** (88式地対艦誘導弾) hay **SSM-1** là loại tên lửa đất đối hạm do tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries phát triển và được trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản. Nó được
thumb|mẫu BMP Т-15 Armata mới nhất của Nga trong ngày 9-5-2015 **Phương tiện chiến đấu bọc thép** (_armoured fighting vehicle_ - **AFV**), còn gọi là **chiến xa thiết giáp (CXTG),** **xe bọc thép (XBT)**, hoặc
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Dòng máy bay Airbus A320** vận tải hành khách thương mại tầm ngắn đến tầm trung do hãng Airbus S.A.S. chế tạo. Các phiên bản của dòng máy bay này gồm có **A318**, **A319**, **A320**,
Trong máy tính, **traceroute** (tiếng Việt tạm dịch là **công cụ truy vết**) là một công cụ chẩn đoán mạng máy tính để hiển thị các tuyến đường (đường dẫn) và đo lường sự chậm