thumb|300x300px|Xe tăng hạng nhẹ M8 với pháo 105 mm
Tăng hạng nhẹ là một trong các biến thể đầu tiên của xe tăng, được thiết kế cho việc di chuyển nhanh và thường dùng trong việc trinh sát hoặc hỗ trợ cho lực lượng viễn chinh, lúc mà tăng chủ lực (MBT) cần hỗ trợ. Những chiếc xe tăng hạng nhẹ đời đầu thường được trang bị vũ khí và bọc giáp tương tự như một xe bọc thép, sử dụng khung gầm bánh xích để di chuyển trên mọi địa hình nhất định.
Sự nhanh nhẹn của những chiếc tăng hạng nhẹ là tính năng chính đã được quan tâm tới vào trước chiến tranh thế giới thứ hai, lúc đó nó được mong đợi là sẽ dùng để phá và xuyên thủng đội hình địch mà trước đó thường dành cho những chiếc tăng hạng trung và tăng hạng nặng làm. Một số lượng xe tăng nhỏ đã được thiết kế và làm nhỏ (nhẹ) lại, được phát triển khi đó và được biết tới với nhiều cái tên khác nhau như "xe tăng siêu nhẹ".
Một vài loại tăng hạng nhẹ vẫn còn được sử dụng khi tăng chủ lực (MBT) phát triển và nó được dùng trong nhiều vai trò khác nhau như hỗ trợ không vận, lực lượng lội nước và trinh sát. Những kiếu xe nâng cấp của những xe chiến đấu bộ binh IFVs thì thường dùng trong vai trò lực lượng dự bị để trực tiếp sử dụng, rẻ hơn khi thay thế, phát triển và dàn trận một chiếc thuần tăng nhẹ.
Lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ nhất
thumb|Xe tăng hạng nhẹ Renault FT của quân đội Mỹ
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quá trình công nghiệp hoá là tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng các loại khí tài quân sự. Ngành công nghiệp ô tô của Pháp, vốn đã quá quen thuộc trong lĩnh vực sản xuất hàng loạt và có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế các loại xe cộ, vào năm 1916 đã cho ra mắt thành công một mẫu thiết kế xe tăng hạng nhẹ khả dụng, một dòng xe vốn bị người Anh xem nhẹ và gạt qua một bên. Đó là hãng Renault với mẫu xe tăng hạng nhẹ FT, xe sử dụng bánh xích với các bề mặt được thiết kế để leo dốc hiệu quả, và là chiếc tăng đầu tiên có tháp pháo quay được một vòng quanh thân. Thực tế cho thấy, chiếc FT được đánh giá là chiếc xe tăng hiện đại đúng nghĩa, kiểu dáng của xe là nguyên mẫu cho hầu hết những thiết kế sau này: kíp lái ngồi ở phía trước; súng chính được lắp trên một tháp pháo có khả năng quay xung quanh thân; động cơ phía sau. Những chiếc tăng trước đó là "tăng hộp", chỉ có một không gian duy nhất cho toàn bộ các bộ phận máy móc, kíp chiến đấu, đạn dược và khoang lái. Chiếc FT có số lượng lớn nhất trong cuộc chiến tranh với 3,700 chiếc được chế tạo (hầu hết vào năm 1918), nhiều hơn tất cả các xe tăng của Anh và Đức cộng lại.
Giữa hai cuộc thế chiến
thumb|Xe tăng hạng nhẹ Mk V của Anh
thumb|Xe tăng [[Ha-Go Kiểu 95|Type 95 Ha-Go tại New Britain sau khi là lính Nhật đầu hàng.]]
Chiếc tăng siêu nhẹ Carden Loyd và những chiếc tương tự đã được trang bị tại nhiều quốc gia với vai trò là một loại phương tiện chiến đấu bánh xích cỡ nhỏ, vũ trang bằng súng máy để phòng vệ trong nhiều năm. Trong thời kỳ mà ngân sách dành cho các hoạt động quân sự bị hạn chế, tăng siêu nhẹ chính là một phương án lựa chọn hợp lý bởi giá thành tương đối rẻ của chúng. Đến năm 1928, Công ty Vickers-Armstrong của Anh đã phát triển một chiếc tăng có trọng lượng 6 tấn dựa trên thiết kế của John Carden và Vivien Loyd. Mặc dù bị quân đội Anh quốc từ chối, một số lượng nhỏ các xe này đã được mua bởi nhiều quốc gia khác. Và nó là sự định hình cơ bản của chiếc tăng T-26 (khoảng 10,000 chiếc) và tăng Ba Lan 7TP, có ảnh hưởng đến chiếc tăng Ý là Fiat M11/39. Quân đội Anh đã không sử dụng thiết kế tăng hạng nhẹ nói trên, thay vào đó lại dùng một phiên bản được phát triển từ xe tăng siêu nhẹ Carden-Loyd làm tiền đề cho loạt xe tăng hạng nhẹ của mình và chúng được sử dụng trong các mục đích chính trị đế quốc và viễn chinh. Khi thiết kế xe tăng đã phù hợp cho việc lắp ráp nhanh chóng, nó đã trở thành nhân tố chính để nước Anh dẫn đầu cho việc mở rộng chiến tranh.
Nhìn chung, xe tăng Pháp của những năm 1930 được thiết kế mang tính đột phá, vỏ giáp tốt và ít chịu ảnh hưởng từ thiết kế của các nước khác. Tuy nhiên, những chiếc tăng hạng nhẹ thường thiếu hỏa lực và hầu hết những chiếc tăng Pháp bất lợi bởi chỉ có một người trên tháp pháo, kể cả những mẫu tăng có kích thước lớn hơn như Char B. Điều này khiến các trưởng xe đảm nhiệm quá nhiều việc khi phải vừa chỉ đạo kíp lái; đôi khi chỉ đạo cả lực lượng bộ binh tùng thiết, lại vừa phải tự ngắm bắn và nạp đạn trên tháp pháo. Thiếu radio trên xe tăng hạng nhẹ đã không được xem là một thiếu sót quan trọng, bởi vì học thuyết chiến tranh bấy giờ của Pháp chủ yếu xoay quanh việc hành tiến chậm rãi, vận động chiến một cách thận trọng để bám sát kế hoạch ban đầu. Nhiệm vụ của các chỉ huy là thực thi kế hoạch, chứ không phải thay đổi, bổ sung hay điều chỉnh để giành quyền chủ động trong tác chiến. Năm 1939, một nỗ lực hơi muộn đã làm tăng sự linh hoạt và số lượng của radio.
Xuyên suốt giai đoạn giữa cuộc chiến, nước Mỹ chỉ sản xuất vài trăm chiếc xe tăng. Từ chiến tranh thế giới thứ nhất tới năm 1935, chỉ 15 chiếc được chế tạo. Hầu hết là sao chép dựa theo mẫu của các nước khác hoặc yếu kém trong khâu tự thiết kế và vật liệu. Thiết kế của Christie tốt hơn vài điểm so với các thiết kế khác, thế nhưng quân đội Mỹ chỉ trang bị 3 chiếc Christie và không theo đuổi ý tưởng này xa hơn. Hạn chế về ngân sách và mức ưu tiên thấp cho quân đội làm giảm bớt tài nguyên để nghiên cứu chế tạo xe tăng. Quân đội Mỹ thay vào đó đã phát triển và thử nghiệm những bộ phận như hộp số, bánh xích, và hệ thống truyền động. Những hoạt động này đã mang lại hiệu quả tích cực khi nổ ra chiến tranh thế giới thứ hai.
Chiến tranh thế giới thứ hai
thumb|Tăng hạng nhẹ của Đức [[Panzer I trong cuộc xâm lược Nauy]]
Tăng BT của Liên Xô có thiết kế tốt nhất trong thập niên 1930, rất nhanh và gắn pháo 45 mm có sơ tốc đầu nòng lớn. Hạn chế duy nhất là động cơ xăng thường dễ bắt lửa, và điều đó đã được chứng thực trong trận Nomonhan từ tháng 5 tới tháng 9 năm 1939. Tăng hạng nhẹ của Nhật Type 95 Ha-Go được trang bị động cơ diesel và mặc dù được trang bị một khẩu pháo 37 mm, sơ tốc đầu nòng thấp khiến tầm bắn hiệu quả của pháo chỉ khoảng 700 mét. Tuy nhiên, những cuộc xung đột này góp phần vào sự phát triển của chiếc tăng hạng trung T-34 nổi tiếng.
Lực lượng thiết giáp của Đức là Panzer đã không thực sự nổi bật lúc bắt đầu cuộc chiến. Trong cuộc xâm lược Ba Lan và Pháp, quân Đức đã hầu như chỉ có tăng hạng nhẹ Panzer I và Panzer II. Chiếc Panzer I chỉ khá hơn một chiếc xe thiết giáp dùng để huấn luyện một chút và cũng chỉ có súng máy, Panzer II thì có pháo 20 mm. Biên chế trong các sư đoàn tăng-thiết giáp của Đức cũng bao gồm những mẫu tăng hạng nhẹ của Tiệp Khắc như Panzer 35(t) và Panzer 38(t).
Người Mỹ khởi đầu quá trình thiết kế xe tăng hạng nhẹ của họ với mẫu M2. Những chiếc tăng này có phần cơ khí đáng tin cậy với sự cơ động tốt. Tuy nhiên hình chiếu của nó quá cao và cũng chỉ có một số ít các xe M2 được tung ra mặt trận. Mẫu M3 Stuart là dòng được cải tiến từ xe tăng M2 với vỏ giáp tốt hơn và pháo 37 mm. Chiếc tăng hạng trung mới được sản xuất vào năm 1940 là M2A1. Tuy nhiên M2A1 lại là một thiết kế kém với giáp mỏng và quá cao.
Chiếc M3 Stuart được sử dụng để yểm trợ bộ binh và xung kích ở mặt trận Bắc Phi, nhưng nó đã nhanh chóng chuyển sang chức năng trinh sát một khi các xe tăng hạng trung bắt đầu được sử dụng. Quá trình phát triển của tăng hạng nhẹ trong chiến tranh cuối cùng đã dẫn đến các mẫu xe M5 và M24 Chaffee.
Người Anh đã rút những mẫu thiết kế tăng hạng nhẹ ra khỏi biên chế lực lượng tăng - thiết giáp của mình ngay từ đầu cuộc chiến, nhưng lại sử dụng một vài thiết kế sau này cho các cuộc đổ bộ lưỡng thê và không vận. Nhìn chung thì người Anh thường sử dụng xe bọc thép cho các hoạt động trinh sát và do đó thiết kế tăng hạng nhẹ cuối cùng, chiếc Mk VIII "Harry Hopkins" chỉ được sản xuất với số lượng nhỏ.
Người Nhật sử dụng khá hiệu quả các mẫu tăng hạng nhẹ do chúng hoạt động tốt hơn nhiều so với các kiểu tăng có thiết kế to hơn, khi phải tiến hành chiến tranh ở các địa hình rừng núi rậm rạp.
Chiến tranh Lạnh
right|thumb| Xe tăng hạng nhẹ M41 Walker Bulldog của [[Việt Nam Cộng hòa trong một cuộc tập trận.]]
right|thumb|Tên lửa bắn ra từ một chiếc [[M-551 Sheridan|M551 Sheridan]]
Tăng hạng nhẹ tiếp tục được chế tạo nhưng với số lượng rất giới hạn đóng vai trò lội nước trinh sát, hỗ trợ những đơn vị không quân và lực lượng phản ứng nhanh, không dùng để đối mặt với kẻ thù. Tăng Liên Xô PT-76 là loại tăng nhẹ chuyên dụng dùng để lội nước với đầy đủ sức mạnh hoả lực để đương đầu với những phương tiện trinh sát khác. Phía Mỹ đã bày ra một số nhỏ những chiếc M41 Walker Bulldog với pháo tốc hành 76 mm và vỏ giáp tốt hơn, nhưng nó bị giới hạn về tầm bắn và quá nặng cho không vận. Chiếc M551 Sheridan của Mỹ có sức mạnh và điểm yếu tương tự nhưng cũng có thể thả dù và hệ thống dù tầm thấp (LAPES).
Tăng FV101 Scorpion, một dòng biến thể về hoả lực của xe chiến đấu trinh sát có bánh xích, nó thay thế cho xe thiết giáp phục vụ trong nước Anh đã được mô tả là loại tăng hạng nhẹ và được bán đến nhiều nước nhỏ hơn.
Sau Chiến tranh Lạnh
Tăng hạng nhẹ như PT-76 tiếp tục giữ một vai trò nhỏ trong chiến tranh xe tăng, mặc dù nhiều chiếc đang mất dần, những chiếc xe bọc thép nhẹ, rẻ và nhanh hơn được ưa chuộng. Tăng hạng nhẹ vẫn dùng để lấp vào một vị trí quan trọng trong nhiều đội quân, đặc biệt với những quốc gia với lực lượng không quân không có tài nguyên và tài chính cho tăng chủ lực (MBT). Nó góp phần quan trong hơn xe tăng hạng nặng ở Đông Nam Á và nhiều quốc gia kém phát triển. Kích cỡ của tăng hạng nhẹ cho phép di chuyển qua rừng rậm nhiệt đới và trọng lượng thấp giảm hẳn nguy cơ mắc trong bùn. Điều này làm cho tăng hạng nhẹ được khuyên dùng cho hỗ trợ bộ binh trong những quốc gia vùng xích đạo. Tăng hạng nhẹ hậu chiến tranh lạnh gồm có Stingray và M8 AGS, và tăng hạng nhẹ dựa trên những xe bọc thép bộ binh như CV90120T của Thụy Điển, 2S25 Sprut-SD của Liên bang Nga và ASCOD LT 105 của Áo - Tây Ban Nha. Xe chiến đấu cơ động Kiểu 16 của Nhật Bản là một xe tăng hạng nhẹ thực thụ đảm nhiệm vai trò hỗ trợ hỏa lực trong phản ứng nhanh và ở các địa hình bất lợi. Với xu hướng gần đây là nhỏ và nhẹ hơn trong những phương tiện nhiều chức năng, một vài quốc gia đã bắt đầu thử nghiệm với tăng hạng nhẹ như trường hợp tăng Ba Lan PL-01 hay Hoa Kỳ với M10 Booker.
Thiết kế tăng hạng nhẹ hiện đại
nhỏ|phải|Xe tăng hạng nhẹ ZTQ-15 của Trung Quốc
Phòng thủ
Thông thường, giáp bọc trong những loại tăng cùng loại thì có tiêu chuẩn như nhau, thỉnh thoảng dày hơn ba lần.
Vỏ ngoài hình dẹt là rất cần thiết để tăng lội nước và lướt qua mặt phẳng của nước không bị lún với vỏ giáp hình chữ V. Điều này được đưa vào chế tạo vỏ giáp ngang bụng có thể áp dụng trên những chiếc tăng trước khi nó di chuyển lên bờ và trước khi trạm trán với vật nổ.
right|thumb|Một ví dụ của xe tăng hiện đại, chiếc [[PL-01 của Ba Lan.]]
Vũ khí
Pháo đủ khả năng để đánh hạ một chiếc xe tăng hiện đại ở phạm vi hợp lý cần một phương tiện lớn để chuyên chở nó. Trọng lượng của pháo được đặc trưng bởi loại đạn và tốc độ rời nòng. Pháo cỡ đạn lớn trên tăng hạng nhẹ thường làm giảm vận tốc rời nòng của đạn và tăng trọng lượng xe tăng. Pháo loại này có hiệu quả chống lại những mục tiêu cận chiến nhưng thiếu sức mạnh và độ chính xác để gây hiệu quả lên những phương tiện nặng hơn đến từ xa. Thay vào đó, pháo tốc độ cao nòng dài hơn thường giảm số lượng đạn và kích cỡ nhằm tiết kiệm trọng lượng. Những pháo loại này thường thiếu sức phá để vô hiệu hoá đối thủ
Tính cơ động
nhỏ|phải|Xe tăng hạng nhẹ CV90 của Pháp (hiện tại không còn dùng) sử dụng hệ thống dù thấp (LAPES).]]
; Di chuyển chiến thuật
Một vài loại tăng hạng nhẹ như PT-76 có khả năng lội nước, đặc trưng khi vận hành trên nước là hệ thống phun nước hoặc bởi bánh xích của nó. Hầu hết xe tăng lội nước có trọng lượng thấp và thường dùng nhôm hợp kim làm vỏ giáp. Vài loại không cần điều chỉnh để vượt sông. Người lái chỉ đơn giản kéo tấm chặn bên hông, đậy nắm và mở bơm đáy, lên số cho truyền động qua nước. Thường, một cánh van được dựng lên để chặn nước khỏi ngập vào nắp.
; Di chuyển chiến lược
Một vài loại tăng hạng nhẹ như xe trinh sát bọc thép M551 Sheridan, có thể điều chỉnh cho tốc độ thả dù chậm từ máy bay chuyên chở. Với cách này, chiếc tăng được kéo thả bằng bộ phanh máng của máy bay và trượt tới điểm dừng. Tổ lái không ngồi trong xe tăng trong khi thả, nhưng nhảy dù từ một máy bay khác. Khi đáp, họ lên xe tăng và tháo dây, lái nó.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|300x300px|Xe tăng hạng nhẹ M8 với pháo 105 mm **Tăng hạng nhẹ** là một trong các biến thể đầu tiên của xe tăng, được thiết kế cho việc di chuyển nhanh và thường dùng trong
Trong Chiến tranh thế giới thứ II, **M2** là xe tăng hạng nhẹ tham chiến với Lục quân Hoa Kỳ, thuộc tiểu đoàn tăng 1 trên đảo Guadalcanal vào năm 1942, phục vụ trong các
**Xe tăng hạng nhẹ M8** (**M8 armored gun system-xe bọc thép mang pháo** (**M8 AGS**)), đôi khi còn được biết với tên gọi **Buford**, là một loại xe tăng hạng nhẹ của Mỹ được phát
**Xe tăng hạng nhẹ Mk VII** (A17), cũng được biết đến là **Tetrarch**, là 1 xe tăng hạng nhẹ của Anh sản xuất bởi Vickers-Armstrongs những năm cuối của thập niên 30 và được triển
**M1** là tên một loại xe tăng hạng nhẹ (light tank) được các sư đoàn kỵ binh Mỹ sử dụng trong những năm 1930. ## Lịch sử hoạt động Theo khuôn khổ lệnh Kahn Act
**Xe tăng 6 tấn M1917** (Tiếng Anh: _Six-ton Tank M1917_), còn được gọi là "Ford hai chỗ ngồi" - là một loại xe tăng hạng nhẹ do Mỹ chế tạo trong Chiến tranh thế giới
**Tosan**, còn được viết là **Towan** (có nghĩa là _Ngựa hoang_), là một xe tăng hạng nhẹ của Iran. Được sản xuất vào năm 1997, nhưng chỉ một số lượng nhỏ sản xuất. Tosan được
- Có nghĩa là "Xe bọc thép hạng nhẹ loại 94", còn được gọi là TK, Viết tắt của Tokushu Keninsha, nghĩa đen là "Máy kéo đặc biệt". Nó là một loại khinh tăng tăng
**T-23** là nguyên mẫu xe tăng siêu nhẹ đầu tiên được Liên Xô phát triển trong thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh. Chỉ có 5 chiếc được sản xuất. ## Lịch sử thiết kế
**M6** là một thiết kế xe tăng hạng nặng của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng được sản xuất với số lượng ít và chưa từng tham chiến. ## Phát triển thế=T1
Xe tăng hạng trung [[T-34|T-34-85 của Liên Xô]] **Tăng hạng trung** là một phân loại xe tăng, đặc biệt phổ biến trong Chiến tranh thế giới thứ hai thể hiện sự dung hòa giữa xe
nhỏ|[[BT-5|BT-6]] **Xe tăng BT** (**' - **БТ_', phiên âm Latin: _Bystrokhodny tank_, tạm hiểu là " xe tăng cơ động" hoặc "xe tăng tốc độ cao") là một dòng xe tăng hạng nhẹ được Liên
**Xe tăng kiểu 63** (Type 63) là một xe tăng do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất tại nhà máy 615 Thiểm Tây từ năm 1963. Mẫu xe tăng này được viện kĩ thuật
**T-46** là xe tăng hạng nhẹ được Liên Xô nhanh chóng phát triển vào năm 1935, như một sự cải tiến T-26 trước đó. Thiết kế này sau đó đã bị chính phủ loại bỏ,
**Xe tăng** hay **chiến xa** (Tiếng Anh: _Tank_) thường được gọi tắt là **tăng**, là loại xe chiến đấu bọc thép, được trang bị pháo lớn, di chuyển bằng bánh xích được thiết kế cho
**Xe tăng Iosif Stalin** (hay **Xe tăng IS**), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng
**KV** là tên một dòng tăng hạng nặng lấy tên viết tắt của nhà chính trị-quân sự nổi tiếng Liên Xô Kliment Voroshilov. Dòng xe KV phục vụ cho quân đội Liên Xô từ trước
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
nhỏ|300x300px|Một chiếc xe tăng hành trình Các xe **tăng hành trình** (tiếng Anh: _cruiser tank_), còn gọi là **xe tăng kỵ binh** hoặc **xe tăng cơ động, xe tăng trinh sát, xe tăng tuần sát**
Tổ hợp chiến xa cơ sở **Bumerang** () là một hệ thống xe bệ thiết giáp bánh hơi được thiết kế cho Lục quân Nga. Hệ thống xe bệ này là cơ sở để lắp
thumb|[[T-90, mẫu xe tăng chủ lực mạnh nhất do Nga sản xuất hiện nay]] **Xe tăng chiến đấu chủ lực** (thuật ngữ tiếng Anh: _main battle tank_, **MBT**) là một phân loại xe tăng từ
**Xe tăng Mk III**, còn gọi là **Valentine**, là một loại xe tăng bộ binh được sản xuất tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong Thế chiến thứ hai. Hơn 8.000 chiếc
**Xe tăng Centurion** được giới thiệu năm 1945, là xe tăng chủ lực của quân đội Anh giai đoạn sau Thế chiến thứ hai. Nó được xem là một trong những thiết kế tăng thành
Dưới đây là những thiết kế, kiểu dáng xe tăng được phát triển từ lâu. Chúng là tiền thân cho những chiếc xe tăng hiện đại bây giờ. ## Thời cổ nhỏ|phải|Mô hình theo bản
Xe tăng hành trình **Mk VI**, hoặc **A15 Crusader**, là một trong loại xe tăng hành trình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland trong giai đoạn đầu Thế chiến thứ hai và
**Sabre** là tên một loại phương tiện bọc thép do thám được lắp ráp dựa trên khung tăng Scorpion. Nó được trang bị thêm một pháo 30 mm-lấy từ xe bọc thép do thám Fox và
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**PT-76** (, _Плавающий Танк - 76_, Plavayushchiy Tank-76) là loại xe tăng hạng nhẹ của Liên Xô. Xe tăng PT-76 được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu thập niên 1950, và sớm trở thành
(hay còn gọi là **Ke-Go Kiểu 97**) là kiểu xe tăng hạng nhẹ được Lục quân Đế quốc Nhật Bản thiết kế và sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và
**T-50** là xe tăng hạng nhẹ do Liên Xô chế tạo vào đầu Thế chiến thứ hai. Thiết kế của loại xe này có một số tính năng tiên tiến, phức tạp và đắt đỏ.
**M3 Stuart,** tên chính thức là **Xe tăng hạng nhẹ, M3** (Light Tank, M3), là một loại xe tăng hạng nhẹ được sử dụng rộng rãi bởi quân Đồng Minh phuơng Tây trong Thế chiến
**M41 Walker Bulldog** là loại xe tăng hạng nhẹ do Hoa Kỳ chế tạo, ban đầu có biệt danh Bulldog, về sau được đặt theo tên của vị tướng Hoa Kỳ đã tử trận tại
**M551 Sheridan** là một xe tăng hạng nhẹ của Hoa Kỳ và được đặt tên theo tướng Philip Sheridan. Nó được thiết kế để có thể hạ cánh bằng dù và bơi qua sông. Nó
**M24 Chaffee** là loại xe tăng hạng nhẹ do Mỹ chế tạo năm 1943 và được đưa vào sử dụng trong Thế chiến thứ hai. Tuy chỉ được sản xuất trong một thời gian ngắn,
Xe tăng **Panzerkampfwagen I**, hay **Sonderkraftfahrzeug (SdKfz) 101**, được viết tắt là **PzKpfw I** nhưng được biết nhiều nhất dưới cái tên **Panzer I** là loại xe tăng hạng nhẹ được sản xuất bởi Đức
**_Panzer II_** là một loại xe tăng hạng nhẹ do Đức Quốc xã sản xuất và sử dụng trong thế chiến II. Tên chính thức của nó bằng tiếng Đức là _Panzerkampfwagen II_ (viết tắt
**AMX-13** là một kiểu xe tăng hạng nhẹ do Tập đoàn Giat (nay là Tập đoàn Nexter), Pháp sản xuất từ năm 1953 đến 1985. AMX 13 được các chuyên gia đánh giá là thiết
là một kiểu xe tăng hạng nhẹ của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Đây là mẫu cải tiến cho xe tăng hạng nhẹ Ha-Go Kiểu 95 bằng cách gắn
**T-70** là loại xe tăng hạng nhẹ được Hồng quân sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai để thay thế hai xe tăng hạng nhẹ khác là T-50 và T-60. ## Lịch sử
nhỏ|Đằng sau xe tăng T-40 **Xe tăng trinh sát lội nước T-40** là một xe tăng hạng nhẹ lội nước được Hồng quân sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Tầm quan
**Ke-Ho Kiểu 5** (五式軽戦車 Go-shiki keisensha?) là kiểu xe tăng hạng nhẹ cuối cùng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Giống như hầu hết các xe tăng
nhỏ|Một Chiếc Ru 251 Được Phác Thảo Lại **Spähpanzer Ru 251** là xe tăng hạng nhẹ của Đức dựa trên xe tăng Kanonenjagdpanzer. Nó được đề xuất để thay thế M41 Walker Bulldog. ## Lịch
**Xe tăng hạng nhẹ Ke-To Kiểu 2** (二式軽戦車 ケト _Nishiki keisensha Ke-To?_) là một kiểu xe tăng hạng nhẹ của Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Thế chiến thứ hai. Đây là
**Ke-Ni Kiểu 98** (九八式軽戦車 Kyuhachi-shiki keisensha?) là kiểu xe tăng hạng nhẹ của Lục quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế nhằm thay thế cho Ha-Go Kiểu 95, kiểu xe bọc thép được Nhật
**Xe tăng hạng nhẹ T92**, hay Xe tăng nòng 76 mm, T92, là xe tăng hạng nhẹ của Mỹ được phát triển vào những năm 1950 bởi AAI Coporation. Với trọng lượng 18,5 tấn, dài 5m,
**Xe tăng hạng nhẹ kiểu 62** (_Type 62_) là loại xe tăng hạng nhẹ do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất, phát triển từ năm 1960. Đây là một phiên bản thu nhỏ của
[[Tập tin:VK 1602 Leopard.svg|nhỏ| Xe tăng VK16.02 Leopard ]] **Xe tăng hạng nhẹ VK 16.02 Leopard** là một xe tăng hạng nhẹ trinh sát được thiết kế từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1942
**Xe tăng hạng nhẹ T-18**, còn gọi là **MS-1**, là loại xe tăng được thiết kế đầu tiên của Liên Xô. Được sản xuất từ 1928-1931, nó được dựa trên xe tăng Renault FT của
**Xe tăng trinh sát T-60** là một loại xe tăng hạng nhẹ được sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1941 đến 1942. Trong thời gian này, hơn 6.292 chiếc đã được sản xuất và
**4TP** (hay còn được gọi là **PZInż 140**) là một nguyên mẫu xe tăng hạng nhẹ được phát triển bởi Ba Lan. ## Thiết kế Xe tăng 4TP được thiết kế vào ngày 16 tháng