Chương trình Apollo (tiếng Anh: Apollo program, còn được biết đến là project Apollo), là chương trình đưa người vào vũ trụ thứ ba của Hoa Kỳ do NASA thực hiện, đã thành công trong việc chuẩn bị và đưa những người đầu tiên lên Mặt Trăng từ năm 1968 đến năm 1972. Chương trình này được thành lập đầu tiên vào năm 1960 dưới thời chính quyền của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, sau chuyến bay đầu tiên của Chương trình Mercury. Sau này, Tổng thống John F. Kennedy đã phát biểu mục tiêu của chương trình là "hạ cánh một người xuống Mặt Trăng và đưa người đó trở lại Trái Đất an toàn" trong một bài phát biểu trước Quốc hội vào ngày 25 tháng 5 năm 1961. Đây là chương trình đưa con người vào vũ trụ thứ ba của Hoa Kỳ, trước đó là Chương trình Mercury và Chương trình Gemini.
Lựa chọn một phương án
Khi Kennedy đã xác định Mặt Trăng như là một mục tiêu, những người lập kế hoạch cho chương trình Apollo phải đối mặt với thách thức là thiết kế một con tàu vũ trụ có thể đáp ứng mục tiêu đó, đồng thời giảm thiểu rủi ro đối với tính mạng con người, chi phí, yêu cầu về công nghệ và kỹ năng của phi hành gia. Có bốn phương án khả thi đã được đưa ra xem xét.
Thiết kế Apollo cho việc bay trực tiếp và gặp gỡ trên quỹ đạo Trái Đất - 1961 (NASA).
- Bay lên trực tiếp (Direct Ascent): Tàu vũ trụ sẽ được phóng và di chuyển trực tiếp lên bề mặt Mặt Trăng mà không cần đi vào quỹ đạo Mặt Trăng trước. Thiết kế này sẽ yêu cầu phát triển một phương tiện phóng cực mạnh như Saturn C-8 hoặc Nova để mang trọng tải lên Mặt Trăng.
- Quỹ đạo điểm hẹn Trái Đất (Earth Orbit Rendezvous (EOR)): Phương án này sẽ đòi hỏi việc phóng lên hai tên lửa Saturn V, một chứa phi thuyền và một chứa nhiên liệu. Phi thuyền sẽ lưu lại trên quỹ đạo và được nạp vào đủ nhiên liệu để có thể bay lên đến Mặt Trăng rồi quay về. Cũng vậy, toàn bộ phi thuyền sẽ hạ xuống Mặt Trăng.
- Gặp nhau trên bề mặt Mặt Trăng (Lunar Surface Rendezvous): Hai tàu vũ trụ sẽ được phóng liên tiếp. Đầu tiên, một phương tiện tự động mang nhiên liệu đẩy để quay trở lại Trái Đất, sẽ hạ cánh trên Mặt Trăng, một thời gian sau phương tiện có người lái sẽ theo sau. Nhiên liệu đẩy sẽ phải được chuyển từ phương tiện tự động sang phương tiện có người lái.
- Quỹ đạo điểm hẹn Mặt Trăng (Lunar Orbit Rendezvous, LOR): Phương án này, được chấp nhận và sử dụng, đưa ra bởi John Houbolt và sử dụng kỹ thuật quỹ đạo điểm hẹn Mặt Trăng. Phi thuyền được chia ra thành nhiều đơn vị, bao gồm một Đơn vị điều khiển (Command/Service Module, CSM) và một Đơn vị Mặt Trăng (Lunar Module, LM; ban đầu là Lunar Excursion Module, LEM). CSM chứa một hệ thống hỗ trợ cuộc sống cho một phi hành đoàn ba người trong chuyến bay năm ngày lên Mặt Trăng rồi quay về và một vỏ bảo vệ nhiệt để khi họ tái nhập vào lại khí quyển của Trái Đất. LM sẽ tách ra khỏi CSM trên quỹ đạo Mặt Trăng và mang hai phi hành gia hạ xuống bề mặt Mặt Trăng, sau đó quay trở lại CSM.
nhỏ|phải|Apollo LM trên bề mặt Mặt Trăng.
Tương phản với các phương án khác, phương án LOR đòi hỏi chỉ một phần nhỏ của phi thuyền hạ cánh trên Mặt Trăng, do đó làm giảm thiểu khối lượng được phóng từ bề mặt Mặt Trăng cho chuyến bay trở về. Khối lượng được phóng lại được giảm thiểu thêm nữa bằng cách để lại một phần của LM (phần với máy móc hạ xuống) trên bề mặt Mặt Trăng.
Đơn vị Mặt Trăng (Lunar Module) bản thân nó bao gồm một tầng hạ xuống và một tầng phóng lên, tầng dưới sẽ trở thành bệ phóng cho tầng trên khi đoàn thám hiểm Mặt Trăng quay lại quỹ đạo Mặt Trăng, nơi họ sẽ nhập lại vào với CSM trước khi quay trở lại Trái Đất. Phương án này có một thuận lợi là vì LM cuối cùng sẽ bị bỏ đi, nó có thể được làm rất nhẹ, để toàn bộ phi vụ có thể được phóng chỉ bởi một tên lửa Saturn V. Tuy nhiên, lúc LOR được quyết định, một số người phác thảo chuyến bay không thoải mái trước số lượng nhập vào và tách ra cần thiết cho phương án.
Để học các kỹ thuật hạ xuống Mặt Trăng, các phi hành gia thực tập trong Phương tiện nghiên cứu việc hạ xuống Mặt Trăng (Lunar Landing Research Vehicle, LLRV), một khí cụ bay mô phỏng (bởi một động cơ phản lực đặc biệt) trọng lực được giảm đi mà Đơn vị Mặt Trăng sẽ bay trong đó.
Các phi thuyền
Phi thuyền Apollo.
Phi thuyền Apollo là một phần của chương trình Apollo, được thiết kế với nhiều đơn vị khác nhau để thực hiện nhiệm vụ được đặt ra. Từ trên xuống, phi thuyền có các thành phần: hệ thống thoát hiểm khi phóng (Lauch Escape System), đơn vị điều khiển (Command Module, CM), đơn vị dịch vụ (Service Module), đơn vị đáp xuống Mặt Trăng (Lunar Module, LM) và bộ chuyển đổi Mặt Trăng (Lunar Module Adapter).
Tất cả các tầng này của phi thuyền nằm trên đỉnh của tên lửa phóng. Các tên lửa phóng là Little Joe II, Saturn I, Saturn IB và Saturn V.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, tàu Apollo 11 đã đưa những phi hành gia đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng là Neil Armstrong và Edwin "Buzz" Aldrin.
Các chuyến bay sau đó, ngoài Apollo 13, đều thành công trong việc đưa người lên mặt trăng. Tổng cộng có 6 phi thuyền Apollo (với 12 phi hành gia) đã hạ cánh xuống mặt trăng.
Sự cố Apollo 13
Ngày 11/4/1970, Apollo 13 được phóng. Nhưng 2 ngày sau đó, đột nhiên thùng oxy trong module dịch vụ của con tàu phát nổ, các hệ thống điện trong con tàu bị hư hại. Các phi hành gia gồm James A. Lovell, John L. "Jack" Swigert và Fred W. Haise đã chạy vào module đáp Mặt Trăng và cả phi hành đoàn đã xoay xở đưa con tàu về Trái Đất an toàn.
Các chuyến bay có người lái
Các chuyến bay lên Mặt Trăng bị hủy bỏ
Các chuyến bay hậu Apollo sử dụng thiết bị của Apollo và Saturn IB
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chương trình Apollo** (tiếng Anh: **Apollo program**, còn được biết đến là **project Apollo**), là chương trình đưa người vào vũ trụ thứ ba của Hoa Kỳ do NASA thực hiện, đã thành công trong
**Chương trình Gemini** (hay **Dự án Gemini**; tiếng Anh: **Project Gemini**) là chương trình chuyến bay vũ trụ có con người thứ hai của NASA. Chương trình Gemini là dự án phối hợp với hai
**Chương trình Artemis** là một dự án hàng không vũ trụ của Hoa Kỳ với mục tiêu là đưa con người quay trở lại Mặt Trăng vào năm 2024. Chương trình đang được triển khai
**Apollo 11** (16–24 tháng 7 năm 1969) là chuyến bay vào vũ trụ của Hoa Kỳ đã lần đầu tiên đưa con người đặt chân lên bề mặt Mặt Trăng. Chỉ huy Neil Armstrong cùng
**Apollo 8** (21–27 tháng 12 năm 1968) là tàu vũ trụ có người lái đầu tiên thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của lực hấp dẫn Trái Đất và là chuyến bay có phi hành
**Apollo 1**, ban đầu được chỉ định là **AS-204**, theo kế hoạch sẽ là sứ mệnh có người lái đầu tiên của chương trình Apollo, CSM cho chuyến bay này mang số hiệu 012, do
**Apollo 12** (14–24 tháng 11 năm 1969) là chuyến bay có người lái thứ sáu trong chương trình Apollo của Hoa Kỳ và là chuyến bay thứ hai đưa con người hạ cánh xuống Mặt
**Apollo 7** (11–22 tháng 10 năm 1968) là chuyến bay có người lái đầu tiên thuộc chương trình không gian Apollo của NASA. Sứ mệnh cũng chứng kiến cơ quan này tiếp tục các chuyến
**Apollo 9** (3–13 tháng 3 năm 1969) là chuyến bay vào vũ trụ có người lái thứ ba trong chương trình Apollo của NASA. Với phạm vi bay ở quỹ đạo Trái Đất tầm thấp,
alt=|thumb|upright|Phương tiện vũ trụ AS-506 được phóng lên tại bệ phóng 39A vào ngày 16 tháng 7 năm 1969, phục vụ sứ mệnh Apollo 11 đưa người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng Chương
**Apollo 5** (phóng ngày 22 tháng 1 năm 1968), còn gọi là **AS-204**, là chuyến bay đầu tiên và không có người lái của Mô-đun Mặt Trăng Apollo (LM), phi thuyền mà về sau đã đưa
**Apollo 4** (9 tháng 11 năm 1967), còn được biết đến với tên gọi **SA-501**, là chuyến bay thử nghiệm không người lái đầu tiên của Saturn V, tên lửa đẩy mà sau này sẽ
**Apollo 6** (4 tháng 4 năm 1968), còn gọi là **AS-502**, là chuyến bay không người lái thứ ba và cuối cùng trong chương trình Apollo, đồng thời là cuộc thử nghiệm thứ hai của
thumb|right|220 px|Ảnh chụp [[Eugene Cernan trên Mặt Trăng]] **Apollo 17** (ngày 7–19 tháng 12 năm 1972) là sứ mệnh hạ cánh lên Mặt Trăng cuối cùng trong chương trình Apollo của NASA, và vẫn là
**Shuttle-_Mir**_ (**Tàu con thoi – Trạm vũ trụ _Hòa Bình_**) là chương trình không gian bao gồm 11 sứ mệnh hợp tác giữa Nga và Hoa Kỳ với các hoạt động như tàu con thoi
phải|nhỏ|Tàu Soyuz 19 từ [[Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz.]] **Chương trình Soyuz** (
**Chương trình Mercury** là chương trình đưa người vào vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ. Nó diễn ra từ năm 1959 đến năm 1963 với mục đích đặt con người lên quỹ đạo vòng
**Apollo 10** (18–26 tháng 5 năm 1969) là chuyến bay vào vũ trụ có người lái thứ tư trong chương trình Apollo của Hoa Kỳ, đồng thời là chuyến bay thứ hai trên quỹ đạo
**Eugene Andrew Cernan** (; 14 tháng 3 năm 1934 – 16 tháng 1 năm 2017) là một phi hành gia, phi công hải quân, kỹ sư điện, kỹ sư hàng không vũ trụ và phi công
**Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo** (tiếng Anh: **Apollo command and service module**, viết ngắn gọn là **Apollo CSM**) là một trong hai thành phần chính cấu tạo nên tàu vũ trụ Apollo của
thumb|Sơ đồ quỹ đạo chuyển tiếp Mặt Trăng, trong đó có điểm hẹn quỹ đạo LOR (điểm 7). **Điểm hẹn quỹ đạo Mặt Trăng** (tiếng Anh: **lunar orbit rendezvous**, **LOR**), hay **tiếp cận trên quỹ
**Launch Complex 39B** (**LC-39B**), hay **Tổ hợp Phóng 39B**, là bệ phóng thứ hai trong ba bệ phóng tại Launch Complex 39 của Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Merritt Island, Florida. Bệ phóng này,
thumb|right|Hình phối cảnh quỹ đạo chuyển tiếp Mặt Trăng. TLI xảy ra tại chấm đỏ gần Trái Đất. **Phóng chuyển tiếp Mặt Trăng** (tiếng Anh: **trans-lunar injection**, **TLI**) một thuật ngữ kỹ thuật để chỉ
**Tòa nhà Lắp ráp Phương tiện** (tiếng Anh: **Vehicle Assembly Building** (ban đầu gọi là **Vertical Assembly Building**), hay **VAB**) là một tòa nhà tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy (KSC) ở Florida, được thiết
"**We choose to go to the Moon**" (tạm dịch: "**Chúng ta chọn lên Mặt Trăng**"), cách gọi chính thức là **Address at Rice University on the Nation's Space Effort** (nghĩa đen: **Bài phát biểu tại
**Mô-đun chỉ huy _Columbia**_ (**CM-107**) là tàu vũ trụ đóng vai trò như mô-đun chỉ huy trong sứ mệnh Apollo 11, chuyến bay đầu tiên đưa con người đặt chân lên Mặt Trăng. _Columbia_ là
**_Apollo 10½: Thời thơ ấu ở kỷ nguyên vũ trụ_** (tên tiếng Anh: **_Apollo 10½: A Space Age Childhood_**) là bộ phim hoạt hình dành cho tuổi mới lớn thuộc thể loại hài chính kịch
**Tổ hợp Phóng 34** (**LC-34**) là một địa điểm phóng đã ngừng hoạt động trên Trạm không quân Mũi Canaveral, Florida. LC-34 và người bạn đồng hành LC-37 ở phía bắc đã được NASA sử
**Crawlerway** là một con đường đôi rộng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Florida. Nó nối Tòa nhà Lắp ráp Phương tiện (VAB) với hai bệ phóng tại Tổ hợp Phóng 39. Chiều dài
thumb|Chiếc đĩa silicon chứa những thông điệp thiện chí được các phi hành gia Apollo 11 để lại trên Mặt Trăng **Các thông điệp thiện chí của Apollo 11** là các tuyên bố từ lãnh
**Saturn V** (thường được biết đến như là "Tên lửa Mặt Trăng") là một loại tên lửa vũ trụ nhiều tầng có khả năng kéo dài sử dụng nhiên liệu lỏng được sử dụng trong
**_Rung chuông vàng_** là một cuộc thi kiến thức dành cho sinh viên các trường đại học tại Việt Nam. Chương trình do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) thực hiện dựa trên format gốc
**Apollo 13** là chuyến tàu không gian có người lái thứ bảy trong chương trình Apollo của Hoa Kỳ và là chuyến thứ ba có ý định hạ cánh trên Mặt Trăng. Tàu đã được
**Zond** (Зонд; tiếng Nga nghĩa là "thăm dò") là tên gọi cho hai chương trình không gian không người lái riêng biệt của Liên Xô được thực hiện từ năm 1964 đến 1970. Loạt đầu
**Artemis I**, trước đây gọi là **Exploration Mission-1**, là một sứ mệnh phóng tên lửa không người lái bay quay quanh Mặt Trăng. Đây là chuyến bay vũ trụ đầu tiên trong chương trình Artemis
**Apollo-Soyuz** là sứ mệnh không gian quốc tế có người lái đầu tiên được thực hiện dưới sự hợp tác chung giữa Hoa Kỳ và Liên Xô vào tháng 7 năm 1975. Hàng triệu người
**Tranquility Base** () là một địa điểm trên Mặt Trăng, nơi mà vào tháng 7 năm 1969, con người đã hạ cánh và lần đầu tiên đặt chân lên một thiên thể khác ngoài Trái
**Neil Alden Armstrong** (5 tháng 8 năm 1930 – 25 tháng 8 năm 2012) là một phi hành gia và kỹ sư kỹ thuật hàng không vũ trụ người Mỹ, và cũng là người đầu
**Donn Fulton Eisele** (23 tháng 6 năm 1930 – 1 tháng 12 năm 1987) (Đại tá USAF) là cố sĩ quan Không quân Hoa Kỳ, phi công thử nghiệm, và về sau là phi hành
**Apollo 14** là nhiệm vụ vũ trụ có người thứ tám trong chương trình Apollo của Hoa Kỳ, và tàu vũ trụ thứ ba hạ cánh trên Mặt Trăng. Đây là lần cuối cùng của
**Lunar Gateway** (gọi đơn giản là **Gateway**) là một tổ hợp công trình quốc tế được đặt ở bên trong quỹ đạo nguyệt tâm. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm liên lạc
**Ronnie Walter Cunningham** (16 tháng 3 năm 1932 – 3 tháng 1 năm 2023) là cố phi hành gia, phi công chiến đấu, nhà vật lý, doanh nhân, nhà đầu tư mạo hiểm và tác
nhỏ|upright|Huân chương Presidential Medal of Freedom **Huân chương Tự do của Tổng thống** (Tiếng Anh: _Presidential Medal of Freedom_) là một huân chương của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để trao tặng cho những _đóng
**Pascal** là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh và thủ tục, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970. Pascal là ngôn ngữ lập trình đặc biệt thích hợp
**2228 Soyuz-Apollo** là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 2026,0941795 ngày (5,55 năm). Tiểu hành tinh được phát hiện ngày 19 tháng 7 năm 1977, và được đặt
nhỏ|Trạm ALSEP trong nhiệm vụ **Apollo Lunar Surface Experiments Package** (viết tắt: **ALSEP**) là một bộ những công cụ khoa học được các phi hành gia mang theo trong sáu nhiệm vụ đổ bộ Mặt
nhỏ|500x500px|Các pha của quỹ đạo trượt **Non-ballistic atmospheric entry hay hồi quyển phi đạn đạo** là một loại quỹ đạo thâm nhập khí quyển phi đạn đạo nhờ sử dụng cánh khí động học ở
**Lunar Orbiter 2** là một tàu vũ trụ không người lái, và là một phần của chương trình Lunar Orbiter. Nó được thiết kế chủ yếu để chụp các khu vực nhẵn trên bề mặt
**Lunar Orbiter 1** là một phi thuyền không người lái, và là một phần của chương trình Lunar Orbiter. Đây là phi thuyền không người lái đầu tiên của Mỹ bay quanh Mặt Trăng. Nó