✨Apollo 1
Apollo 1, ban đầu được chỉ định là AS-204, theo kế hoạch sẽ là sứ mệnh có người lái đầu tiên của chương trình Apollo,
CSM cho chuyến bay này mang số hiệu 012, do North American Aviation (NAA) chế tạo, là một phiên bản Block I được thiết kế trước khi lựa chọn chiến lược điểm hẹn quỹ đạo Mặt Trăng, do đó nó không thể ghép nối với mô-đun Mặt Trăng. Các chuyên gia đã đưa khả năng này vào trong thiết kế của CSM Block II cùng với các bài học rút ra từ Block I. Block II sẽ được bay thử nghiệm với LM một khi LM sẵn sàng.
Tháng 1 năm 1966, Giám đốc Điều hành Phi hành đoàn Deke Slayton chọn ra phi hành đoàn Apollo đầu tiên với Grissom làm phi công chỉ huy, White là phi công cao cấp, và tân binh Donn F. Eisele đảm nhiệm vị trí phi công; tuy nhiên, Eisele đã bị trật khớp vai hai lần trên máy bay huấn luyện không trọng lượng KC-135 và phải phẫu thuật vào ngày 27 tháng 1. Slayton thay thế ông bằng Chaffee. Ngày 21 tháng 3 năm 1956, NASA thông báo kết quả lựa chọn phi hành đoàn, trong đó James McDivitt, David Scott và Russell Schweickart là những thành viên của phi hành đoàn dự phòng.
Ngày 29 tháng 9, Walter Schirra, Eisele và Walter Cunningham được ghi danh vào phi hành đoàn chính cho chuyến bay thử nghiệm thứ hai của CSM Block I là AS-205. NASA dự định tiếp nối phi vụ này với một chuyến bay thử không người lái của LM (AS-206), sau đó sứ mệnh có người lái thứ ba sẽ là chuyến bay kép mang định danh AS-278 (hoặc AS-207/208), trong đó AS-207 sẽ phóng lên CSM Block II có người lái đầu tiên, rồi thực hiện một cuộc gặp gỡ và ghép nối với chiếc LM không người lái phóng trên AS-208.
Tháng 3 năm 1966, NASA nghiên cứu về khả năng tiến hành sứ mệnh Apollo đầu tiên như một cuộc hẹn chung trong không gian với sứ mệnh cuối cùng thuộc Dự án Gemini là Gemini 12 vào tháng 11 cùng năm. Tuy nhiên vào tháng 5, sự chậm trễ trong việc giúp Apollo sẵn sàng bay và thời gian cần thêm để kết hợp khả năng tương thích với Gemini đã khiến ý tưởng ấy trở nên không thực tế. Vấn đề này được đem ra bàn luận khi việc không chuẩn bị kịp thời cho trạng thái sẵn sàng của tàu vũ trụ AS-204 đã khiến thời hạn mục tiêu vào quý 4 năm 1966 bị bỏ lỡ, và sứ mệnh phải dời lại sang ngày 21 tháng 2 năm 1967.
Bối cảnh sứ mệnh
thumb|left|Mô-đun chỉ huy 012, được gắn nhãn Apollo One, có mặt tại [[Trung tâm Vũ trụ Kennedy vào ngày 26 tháng 8 năm 1966.]] Tháng 10 năm 1966, NASA thông báo chuyến bay này sẽ mang theo một máy quay truyền hình nhỏ để phát sóng trực tiếp từ mô-đun chỉ huy. Chiếc máy quay cũng được sử dụng để cho phép các nhân viên điều hành chuyến bay giám sát bảng điều khiển của tàu vũ trụ. Thiết bị này được mang theo trong tất cả các sứ mệnh Apollo có phi hành đoàn.
Huy hiệu
Tháng 6 năm 1966, phi hành đoàn của Grissom nhận được sự chấp thuận cho phép thiết kế một miếng vá (patch) sứ mệnh với tên gọi Apollo1 (mặc dù quyết định này sau đó đã bị rút lại trong khi chờ phán quyết cuối cùng về việc định danh nhiệm vụ, điều mà chỉ được giải quyết sau vụ cháy). Vùng trung tâm của thiết kế mô tả một mô-đun chỉ huy và dịch vụ đang bay qua miền đông nam Hoa Kỳ với Florida (địa điểm phóng) được làm nổi bật. Mặt Trăng có thể nhìn thấy từ xa, tượng trưng cho mục tiêu cuối cùng của chương trình. Một đường viền màu vàng mang tên của sứ mệnh và phi hành gia cùng với một đường viền khác bên ngoài có các ngôi sao và sọc đỏ. Huy hiệu được thiết kế bởi phi hành đoàn, với ảnh minh họa do nhân viên Allen Stevens của North American Aviation thực hiện.
Chuẩn bị tàu vũ trụ và phi hành đoàn
thumb|Phi hành đoàn Apollo 1 bày tỏ mối lo ngại về các vấn đề của phi thuyền bằng cách trình bày bản nhại lại bức chân dung phi hành đoàn của họ cho người quản lý của ASPO là Joseph Shea vào ngày 19 tháng 8 năm 1966.
Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo lớn và phức tạp hơn rất nhiều so với bất kỳ tàu vũ trụ có người lái nào trước đó. Tháng 10 năm 1963, Joseph F. Shea được chọn làm quản lý cho Văn phòng Chương trình Tàu vũ trụ Apollo (Apollo Spacecraft Program Office, viết tắt là ASPO), chịu trách nhiệm quản lý việc thiết kế và xây dựng cả CSM cũng như LM. Trong cuộc họp đánh giá tàu vũ trụ được tổ chức với sự có mặt của Shea vào ngày 19 tháng 8 năm 1966 (một tuần trước khi giao hàng), phi hành đoàn đã bày tỏ mối lo ngại về lượng vật liệu dễ cháy (chủ yếu là lưới nylon và Velcro) trong cabin, thứ mà cả phi hành gia và kỹ thuật viên đều cảm thấy thuận tiện trong việc giữ cố định các công cụ và thiết bị. Mặc dù Shea đã cho phi thuyền đạt điểm đậu, nhưng sau cuộc họp, họ lại đưa cho ông một bức chân dung phi hành đoàn chụp ở tư thế cúi đầu và chắp tay cầu nguyện, với dòng chữ: Shea ra lệnh cho nhân viên của mình yêu cầu North American loại bỏ các chất dễ cháy ra khỏi cabin, nhưng lại không đích thân giám sát vấn đề. Grissom thất vọng với việc các kỹ sư mô phỏng đào tạo không thể theo kịp những thay đổi của tàu vũ trụ, đến nỗi ông đã lấy một quả chanh từ cái cây gần nhà mình và treo nó lên thiết bị mô phỏng.
Sau khi khắc phục tất cả các sự cố phần cứng còn tồn tại trên CSM-012, tàu vũ trụ được lắp ráp lại đã hoàn thành cuộc thử nghiệm buồng độ cao thành công với phi hành đoàn dự phòng của Schirra vào ngày 30 tháng 12. thumb|McDivitt, Scott và Schweickart luyện tập cho sứ mệnh Apollo thứ hai vào ngày 26 tháng 1 năm 1967. Họ đang ở bên trong mô-đun chỉ huy Block II thứ nhất và mặc những phiên bản màu xanh dương ban đầu của bộ đồ áp suất Block II.
Sau khi thử nghiệm độ cao thành công, tàu vũ trụ được đưa ra khỏi buồng độ cao vào ngày 3 tháng 1 năm 1967 và ghép với phương tiện phóng Saturn IB trên bệ phóng 34 vào ngày 6 tháng 1.
Grissom cho biết trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 2 năm 1963 rằng NASA không thể loại bỏ rủi ro bất chấp các biện pháp đề phòng:
Ông nói thêm, "Tôi cho rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp thất bại. Ở mọi công việc khác đều có thất bại, và chúng chắc chắn sẽ xảy ra dù sớm hay muộn". Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 12 năm 1966, khi được hỏi về nỗi lo sợ đối với một thảm họa tiềm tàng, Grissom đáp lại rằng:
Tai nạn
Thử nghiệm plugs-out
thumb|Chaffee, White và Grissom đang luyện tập trong cabin của một mô-đun chỉ huy mô phỏng, ngày 19 tháng 1 năm 1967
Buổi mô phỏng phóng trên bệ phóng 34 vào ngày 27 tháng 1 năm 1967 là một cuộc thử nghiệm "plugs-out" (tạm dịch là "rút phích cắm"), nhằm mục đích xác định xem liệu tàu vũ trụ có hoạt động bình thường bằng nguồn điện nội bộ (mô phỏng) khi bị tách ra khỏi tất cả các dây cáp và dây rốn hay không. Việc vượt qua bài kiểm tra này là điều cần thiết để sứ mệnh có thể phóng vào ngày 21 tháng 2. Cuộc thử nghiệm không được coi là nguy hiểm vì cả phương tiện phóng và tàu vũ trụ đều không được nạp nhiên liệu hoặc chất đông lạnh và tất cả hệ thống nổ (pyrotechnic system) (hay bu lông nổ (explosive bolts)) đều đã bị vô hiệu hóa. theo sau là hai giây âm thanh xô xát qua micrô đang mở của Grissom. Ngay sau đó là một người (đa phần người nghe và kết quả phân tích trong phòng thí nghiệm chỉ ra đó là Chaffee) nói rằng "[Tôi, hay Chúng tôi] đang gặp hỏa hoạn trong buồng lái". Sau 6,8 giây im lặng, nhiều người khác nhau đã nghe thấy một đường truyền thứ hai bị cắt xén nghiêm trọng (họ tin rằng việc truyền tải này được thực hiện bởi Chaffee Lời khai của ông mâu thuẫn với báo cáo chính thức liên quan đến vị trí thi thể của Grissom. Slayton nói về thi thể của Grissom và White như sau: "Tôi khó mà xác định được chính xác mối quan hệ của hai thi thể này. Chúng gần như lẫn lộn với nhau và tôi thực sự không thể phân biệt được cái đầu nào thuộc về cơ thể nào vào lúc đó. Tôi đoán điều duy nhất thực sự rõ ràng là cả hai thi thể đều ở mép dưới của cửa sập. Họ không ngồi ở trên ghế. Gần như họ hoàn toàn không ở gần khu vực chỗ ngồi".
Điều tra
thumb|Phần bên trong bị cháy đen của cabin Apollo1
Do thất bại trong chuyến bay của sứ mệnh Gemini 8 vào ngày 17 tháng 3 năm 1966, Phó quản lý NASA Robert Seamans đã soạn thảo và thực hiện Chỉ thị Quản lý 8621.1 (Management Instruction 8621.1) vào ngày 14 tháng 4 năm 1966, xác định Chính sách và Thủ tục Điều tra Thất bại của Nhiệm vụ (Mission Failure Investigation Policy And Procedures). Việc làm này đã sửa đổi các quy trình xử lý tai nạn hiện có của NASA, dựa trên thủ tục điều tra tai nạn máy bay quân sự, bằng cách trao cho phó quản lý quyền tiến hành các cuộc điều tra độc lập về những vụ thất bại lớn, ngoài những vụ thất bại mà các quan chức khác nhau của Văn phòng Chương trình thường sẽ phải chịu trách nhiệm. Chỉ thị tuyên bố: "Chính sách của NASA là điều tra và ghi lại nguyên nhân của tất cả sứ mệnh thất bại lớn xảy ra trong quá trình tiến hành những hoạt động hàng không và không gian của cơ quan, đồng thời thực hiện hành động khắc phục thích hợp dựa trên các phát hiện và khuyến nghị".
Ngay sau vụ hỏa hoạn, Trưởng quản lý NASA James E. Webb đã yêu cầu Tổng thống Lyndon B. Johnson cho phép NASA xử lý cuộc điều tra theo thủ tục đã được thiết lập, với cam kết sẽ trung thực trong việc đánh giá trách nhiệm và thông báo cho các nhà lãnh đạo thích hợp của Quốc hội. Seamans sau đó chỉ đạo thành lập Ủy ban Điều tra Apollo 204 (Apollo 204 Review Board) do giám đốc Trung tâm nghiên cứu Langley Floyd L. Thompson làm chủ tịch, trong đó có phi hành gia Frank Borman, nhà thiết kế tàu vũ trụ Maxime Faget và sáu người khác. Vào ngày 1 tháng 2, giáo sư Frank A. Long của Đại học Cornell rời khỏi ủy ban và được thay thế bởi Robert W. Van Dolah của Cục Mỏ Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, kỹ sư trưởng của North American phụ trách chương trình Apollo là George Jeffs cũng từ chức.
Seamans đã ra lệnh tạm giữ tất cả phần cứng cũng như phần mềm của Apollo 1 và chỉ được trả về dưới sự kiểm soát của ủy ban. Sau khi ghi chép trọn vẹn về bên trong của CM-012 bằng công nghệ chụp ảnh lập thể, ủy ban đã ra lệnh tháo rời nó với các quy trình đã được thử nghiệm từ việc tháo rời chiếc CM-014 giống hệt và tiến hành điều tra kỹ lưỡng từng bộ phận. Họ cũng xem xét kết quả khám nghiệm tử thi của các phi hành gia và phỏng vấn nhân chứng. Seamans gửi cho Webb báo cáo tình trạng hàng tuần về tiến trình điều tra, và ủy ban đã đưa ra báo cáo cuối cùng vào ngày 5 tháng 4 năm 1967.
Môi trường oxy tinh khiết
Cuộc thử nghiệm plugs-out được tiến hành nhằm mô phỏng quy trình phóng, với cabin được điều áp bằng oxy tinh khiết ở mức phóng danh nghĩa là , cao hơn so với áp suất khí quyển tiêu chuẩn ở mực nước biển. Con số này lớn hơn năm lần áp suất riêng phần của oxy trong khí quyển, và tạo ra một môi trường trong đó các vật liệu thường không được coi là dễ cháy sẽ rất dễ cháy và bùng lửa.
Môi trường oxy áp suất cao tương tự đã được sử dụng thành công trong các chương trình Mercury và Gemini. Áp suất trước khi phóng được cố tình điều chỉnh lớn hơn mức áp suất xung quanh để đẩy không khí chứa nitơ ra ngoài và thay thế bằng oxy tinh khiết, đồng thời bịt kín nắp cửa sập plug door. Trong quá trình phóng, áp suất sẽ giảm dần xuống mức khi bay là , cung cấp đủ oxy cho các phi hành gia thở đồng thời giảm nguy cơ hỏa hoạn. Phi hành đoàn Apollo 1 đã thử nghiệm thành công quy trình này với tàu vũ trụ trong buồng độ cao (chân không) của Operations and Checkout Building vào ngày 18 và 19 tháng 10 năm 1966, và phi hành đoàn dự phòng gồm Schirra, Eisele và Cunningham đã lặp lại quy trình đó vào ngày 30 tháng 12. Ủy ban điều tra lưu ý rằng, trong các cuộc thử nghiệm này, mô-đun chỉ huy đã được điều áp hoàn toàn bằng oxy nguyên chất bốn lần với tổng thời gian là sáu giờ mười lăm phút, dài hơn hai tiếng rưỡi so với lúc thử nghiệm plugs-out. Bộ phận hệ thống phi hành đoàn của NASA đã lắp đặt Velcro khắp tàu vũ trụ, gần giống như việc trải thảm. Khóa Velcro này được phát hiện là dễ cháy trong môi trường oxy 100% áp suất cao.
Thiết kế cửa sập
thumb|Cửa sập BlockI được sử dụng trên Apollo1, bao gồm hai mảnh và yêu cầu áp suất bên trong cabin không lớn hơn áp suất khí quyển để có thể mở. Lớp thứ ba bên ngoài, hay nắp cửa sập bảo vệ tăng cường, không được chụp.
Nắp cửa sập bên trong sử dụng thiết kế plug door và bị bịt kín do áp suất bên trong cabin cao hơn bên ngoài. Mức áp suất thông thường dùng cho phi vụ phóng (cao hơn môi trường xung quanh ) đã tạo ra đủ lực để ngăn chặn việc tháo nắp cho đến khi áp suất dư thừa thoát ra. Quy trình khẩn cấp yêu cầu Grissom mở van xả khí trong cabin trước khi cho phép White tháo nắp,
Chuẩn bị tình huống khẩn cấp
Ủy ban lưu ý rằng những người lập kế hoạch đã không xác định được sự nguy hiểm của bài kiểm tra; thiết bị khẩn cấp (chẳng hạn như mặt nạ phòng độc) không phù hợp để xử lý loại hỏa hoạn này; đội cứu hỏa, cứu hộ và y tế không hề có mặt; các khu vực tiếp cận và làm việc của tàu vũ trụ cũng chứa đầy những trở ngại đối với hoạt động ứng phó khẩn cấp như bậc thang, cửa trượt và các khúc cua gấp. Trong chuyên khảo Project Apollo: The Tough Decisions của mình, Phó quản lý Seamans viết rằng sai lầm tồi tệ nhất của NASA trong đánh giá kỹ thuật là không tiến hành thử lửa (fire test) trên mô-đun chỉ huy trước khi thử nghiệm plugs-out. Trong tập đầu tiên của loạt phim tài liệu năm 2009 NASA: Triumph and Tragedy của BBC, Jim McDivitt nói rằng NASA không biết bầu không khí 100% oxy sẽ ảnh hưởng đến việc đốt cháy như thế nào. Những nhận xét tương tự của các phi hành gia khác cũng được thể hiện trong bộ phim tài liệu năm 2007 In the Shadow of the Moon.
Hệ quả chính trị
right|thumb|Phó quản lý [[Robert Seamans|Seamans, Trưởng quản lý Webb, Quản lý Chuyến bay Không gian có người lái George E. Mueller, và Giám đốc Chương trình Apollo Phillips làm chứng trước phiên điều trần của Thượng viện về vụ tai nạn Apollo.]]
Các ủy ban ở cả hai viện của Quốc hội Hoa Kỳ với vai trò giám sát chương trình không gian đã sớm tiến hành những cuộc điều tra, bao gồm cả Ủy ban Thượng viện về Khoa học Hàng không và Vũ trụ (Senate Committee on Aeronautical and Space Sciences) do Thượng nghị sĩ Clinton P. Anderson làm chủ tịch. Seamans, Webb, Quản lý Chuyến bay Không gian có người lái (Manned Space Flight Administrator), Tiến sĩ George E. Mueller và Giám đốc Chương trình Apollo, Thiếu tướng Samuel C. Phillips đã được triệu tập để làm chứng trước ủy ban của Anderson.
Trong phiên điều trần ngày 27 tháng 2, Thượng nghị sĩ Walter F. Mondale hỏi Webb liệu ông có biết bản báo cáo về các vấn đề bất thường trong hoạt động của North American Aviation đối với hợp đồng Apollo hay không. Webb trả lời rằng ông không biết và để cấp dưới của mình trong hội đồng nhân chứng trả lời. Mueller và Phillips nói họ cũng không biết về bất kỳ "bản báo cáo" nào như vậy.
Trong cuộc thẩm vấn năm 1967 của Mondale về cái được gọi là "Bản báo cáo Phillips", Seamans lo rằng Mondale thực sự có thể đã nhìn thấy bản sao cứng bài thuyết trình của Phillips và trả lời rằng các nhà thầu đôi khi phải chịu sự đánh giá tiến độ tại chỗ; có lẽ đây chính là điều mà thông tin của Mondale đề cập đến.
Về phía NASA, Joseph Shea đã dùng đến thuốc an thần và rượu để giúp bản thân đối phó với sự việc.
Phục hồi chương trình
Ba ngày sau vụ tai nạn, Gene Kranz triệu tập một cuộc họp với các nhân viên của mình tại Kiểm soát Sứ mệnh và đưa ra bài phát biểu mà về sau đã trở thành một trong những nguyên tắc của NASA. Đối với những sai sót và thái độ chung xung quanh chương trình Apollo trước vụ tai nạn, ông nói: "Chúng ta quá 'gung-ho' (hay "sốt sắng") về thời hạn và đã bỏ qua tất cả các vấn đề gặp phải hàng ngày trong công việc. Mọi yếu tố của chương trình đều gặp rắc rối và chúng ta cũng vậy". Kranz nhắc nhở cả nhóm về sự nguy hiểm và tàn nhẫn trong nỗ lực của họ, đồng thời nêu ra yêu cầu mới rằng mọi thành viên trong mỗi nhóm kiểm soát sứ mệnh phải "cứng rắn (tought) và có năng lực (competent)", và ông không đòi hỏi gì hơn ngoài sự hoàn hảo trong suốt các chương trình của NASA.
- Phi thuyền Block II dự định sẽ sử dụng một cửa sập được thiết kế lại hoàn toàn, mở ra ngoài và có thể mở trong vòng chưa đầy năm giây. Mặc dù ba sứ mệnh Apollo không có phi hành đoàn (AS-201, AS-202 và AS-203) đã diễn ra trước đó nhưng chỉ có AS-201 và AS-202 mang theo tàu vũ trụ. Do vậy, sứ mệnh kế tiếp, chuyến bay thử nghiệm Saturn V đầu tiên không có người lái (AS-501) sẽ được đặt tên là Apollo 4, và tất cả các chuyến bay tiếp theo sẽ được đánh số theo thứ tự phóng. Ba chuyến bay đầu tiên không được đánh số lại và tên gọi Apollo 2 và Apollo 3 sẽ chính thức không được sử dụng. Mueller coi AS-201 và AS-202, chuyến bay đầu tiên và thứ hai của Apollo CSM Block I, tương ứng là Apollo 2 và 3.
Việc chuyến bay có phi hành đoàn bị gián đoạn đã cho phép NASA bắt kịp tiến độ của Saturn V và mô-đun Mặt Trăng. Apollo 4 bay vào tháng 11 năm 1967. Tên lửa Saturn IB của Apollo 1 (AS-204) được tháo dỡ khỏi Tổ hợp Phóng 34, sau đó được lắp ráp lại tại Tổ hợp Phóng 37B và dùng để phóng Apollo 5, chuyến bay thử nghiệm không người lái trên quỹ đạo Trái Đất của mô-đun Mặt Trăng đầu tiên vào tháng 1 năm 1968. Chiếc Saturn V không người lái thứ hai là AS-502 bay với tên gọi Apollo 6 vào tháng 4 năm 1968, và phi hành đoàn dự phòng của Grissom gồm Wally Schirra, Don Eisele và Walter Cunningham cuối cùng đã thực hiện sứ mệnh thử nghiệm trên quỹ đạo với tên gọi Apollo 7 (AS-205) trên phi thuyền CSM Block II vào tháng 10 năm 1968.
Tưởng niệm
thumb|Đài tưởng niệm Space Mirror tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy có tên Grissom, White và Chaffee ở giữa phía dưới.
Gus Grissom và Roger Chaffee an nghỉ tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ed White được chôn cất tại Nghĩa trang West Point trong khuôn viên Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point, New York. Các quan chức NASA đã cố gắng gây áp lực với Pat White, góa phụ của Ed White, để cho phép chồng bà cũng được chôn cất tại Arlington, đi ngược lại với những gì mà bà cho là mong muốn của ông; nỗ lực của họ đã bị phi hành gia Frank Borman cản trở. Tên của tổ bay Apollo 1 nằm trong số nhiều phi hành gia thiệt mạng khi làm nhiệm vụ, được liệt kê trên Đài tưởng niệm Space Mirror tại Khu liên hợp Du khách Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Merritt Island, Florida. Tổng thống Jimmy Carter đã truy tặng Huân chương Danh dự Không gian của Quốc hội cho Grissom vào ngày 1 tháng 10 năm 1978. Tổng thống Bill Clinton truy tặng huân chương này cho White và Chaffee vào ngày 17 tháng 12 năm 1997.
Một miếng vá nhiệm vụ Apollo 1 đã được để lại trên bề mặt Mặt Trăng sau chuyến hạ cánh có người lái đầu tiên lên thiên thể này của các thành viên phi hành đoàn Apollo 11 là Neil Armstrong và Buzz Aldrin. Sứ mệnh Apollo 15 cũng để lại trên bề mặt Mặt Trăng một tác phẩm điêu khắc nhỏ mang tên Fallen Astronaut, cùng với một tấm bảng ghi tên các phi hành gia Apollo 1 nằm giữa những cái tên khác, bao gồm các phi hành gia Liên Xô đã thiệt mạng khi theo đuổi mục tiêu đưa con người vào không gian. thumb|Huy chươngApollo 1 bay cùng phi hành gia [[Jim McDivitt trên Apollo9]]
Tổ hợp Phóng 34
Sau vụ cháy Apollo 1, Tổ hợp Phóng 34 sau đó chỉ được sử dụng để phóng Apollo 7 và về sau bị tháo dỡ xuống thành bệ phóng bê tông, hiện vẫn còn ở địa điểm có tọa độ cùng với một số kết cấu bê tông và cốt thép khác. Bệ có hai tấm bia tưởng niệm phi hành đoàn. Tấm bảng "Ad Astra per aspera" dành cho "phi hành đoàn của Apollo 1" đã xuất hiện trong bộ phim năm 1988 Ngày tận thế. Tấm bảng "Dedicated to the living memory of the crew of the Apollo 1" ("Dành riêng cho ký ức về phi hành đoàn Apollo 1") được trích dẫn ở cuối truyện ngắn Requiem của Wayne Hale cho chương trình tàu con thoi của NASA. Hàng năm, gia đình của phi hành đoàn Apollo 1 đều được mời đến đây để làm lễ tưởng niệm và Khu liên hợp du khách thuộc Trung tâm Vũ trụ Kennedy sẽ bao gồm nơi này trong chuyến tham quan các địa điểm phóng lịch sử tại Mũi Canaveral.
Các ngôi sao, địa danh trên Mặt Trăng và Sao Hỏa
- Các phi hành gia Apollo thường xuyên căn chỉnh các bệ dẫn đường quán tính của tàu vũ trụ và xác định vị trí của chúng so với Trái Đất và Mặt Trăng bằng cách quan sát các tập hợp sao bằng dụng cụ quang học. Như một trò chơi khăm, phi hành đoàn Apollo 1 đã đặt tên cho ba ngôi sao trong danh mục Apollo theo tên của họ và đưa chúng vào tài liệu của NASA. Gamma Cassiopeiae trở thành Navi – là Ivan (tên đệm của Gus Grissom) đánh vần ngược. Iota Ursae Majoris trở thành Dnoces – "Second" ("Thứ hai") đánh vần ngược, xuất phát từ tên gọi Edward H. White II. Và Gamma Velorum trở thành Regor – Roger (Chaffee) đánh vần ngược. Những cái tên này nhanh chóng được chấp nhận sau vụ tai nạn Apollo 1 và được các phi hành đoàn Apollo sau này sử dụng thường xuyên.
- Một số miệng núi lửa trên Mặt Trăng và những ngọn đồi trên Sao Hỏa được đặt theo tên của ba phi hành gia Apollo 1.
Các công trình dân dụng khác
- Ba ngôi trường công lập ở Huntsville, Alabama (quê hương của Trung tâm Chuyến bay Không gian George C. Marshall và Trung tâm Tên lửa và Vũ trụ Hoa Kỳ): Trường Trung học phổ thông Virgil I. Grissom, Trường Trung học phổ thông Ed White và Trường Tiểu học Chaffee.
- Trường Ed White II Elementary e-STEM Magnet ở El Lago, Texas, gần Trung tâm Vũ trụ Johnson. White từng sống ở El Lago (cạnh Neil Armstrong). *Các ngôi trường cấp hai mang tên Grissom hoặc Virgil I. Grissom ở Mishawaka, Indiana, Sterling Heights, Michigan và Tinley Park, Illinois.
- Trường Tiểu học Virgil Grissom ở Princeton, Iowa và Trường Tiểu học Edward White ở Eldridge, Iowa. Cả hai đều thuộc Học khu Cộng đồng North Scott, nơi có ba ngôi trường tiểu học khác cũng đặt theo tên các phi hành gia Neil Armstrong, John Glenn và Alan Shepard.
- Trường số 7 ở Rochester, New York, còn được biết đến với tên gọi Trường Virgil I. Grissom.
- Đầu những năm 1970, ba con phố ở Amherst, New York được đặt tên theo Chaffee, White và Grissom. Đến năm 1991, khi không có ngôi nhà nào được xây dựng trên Grissom Drive, khu vực này được chuyển mục đích sử dụng thành tài sản thương mại; biển hiệu đường Grissom đã bị dỡ bỏ và con phố được đổi tên thành Classics V Drive theo phòng tiệc tại khu đất đó.
- Quần đảo THUMS, bốn hòn đảo khoan dầu nhân tạo ở bến cảng ngoài khơi Long Beach, California được đặt tên là Grissom, White, Chaffee và Theodore Freeman.
- Cung thiên văn Roger B. Chaffee tọa lạc tại Bảo tàng Công cộng Grand Rapids.
- Đại lộ tưởng niệm Roger B. Chaffee ở Wyoming, Michigan, vùng ngoại ô lớn nhất của Grand Rapids, Michigan, ngày nay là một khu công nghiệp, nhưng nằm trên vị trí trước đây của sân bay Grand Rapids. Một phần lớn đường băng bắc-nam ngày nay được sử dụng làm phần đường của Đại lộ tưởng niệm Roger B. Chaffee.
- Quỹ học bổng Roger B. Chaffee ở Grand Rapids, Michigan, được tổ chức mỗi năm để vinh danh một học sinh có ý định theo đuổi sự nghiệp kỹ thuật hoặc khoa học.
- Ba công viên liền kề ở Fullerton, California đều được đặt tên theo Grissom, Chaffee và White. Các công viên này nằm gần cơ sở nghiên cứu và phát triển trước đây của Hughes Aircraft. Một công ty con của Hughes là Hughes Space and Communications Company đã chế tạo các bộ phận cho chương trình Apollo.
- Hai tòa nhà trong khuôn viên Đại học Purdue ở West Lafayette, Indiana được đặt tên theo Grissom và Chaffee (cả hai đều là cựu sinh viên Purdue). Tòa Grissom Hall có Trường Kỹ thuật Công nghiệp (và là trụ sở của Trường Hàng không và Du hành vũ trụ trước khi chuyển đến Hội trường Kỹ thuật Neil Armstrong mới). Chaffee Hall, được xây dựng vào năm 1965, là khu phức hợp hành chính của Phòng thí nghiệm Maurice J. Zucrow, nơi nghiên cứu quá trình đốt cháy, động cơ đẩy, động lực khí và các lĩnh vực liên quan. Chaffee Hall có khán phòng 72 chỗ ngồi, các văn phòng và nhân viên hành chính.
- Một cái cây tượng trưng cho mỗi phi hành gia đã được trồng tại Astronaut Memorial Grove tại Trung tâm Vũ trụ Johnson ở Houston, Texas, không xa tòa nhà Saturn V, cùng với những cái cây dành cho mỗi phi hành gia từ tai nạn Challenger và Columbia. Chuyến tham quan trung tâm vũ trụ sẽ tạm dừng một chút gần khu rừng để dành giây ra lát im lặng.
- Năm 1968, Căn cứ Không quân Bunker Hill gần Peru, Indiana được đổi tên thành Căn cứ Không quân Grissom. Mã ba chữ cái cho đèn hiệu dẫn đường hàng không VOR ở căn cứ là GUS.
- Cả ba phi hành gia Apollo 1 đều được tưởng niệm ở Jacksonville, Florida: Trường Trung học phổ thông Edward H. White, đường Chaffee Road và đường Grissom Drive.
Tàn tích của CM-012
thumb|Cửa sập thực tế của Apollo1 được trưng bày tại tổ hợp Apollo SaturnV ở Trung tâm Vũ trụ Kennedy
Mô-đun chỉ huy Apollo 1 chưa từng được trưng bày trước công chúng. Sau tai nạn, phi thuyền đã được di dời và đưa đến Trung tâm Vũ trụ Kennedy để thuận tiện cho việc tháo dỡ của ủy ban điều tra nhằm xác định nguyên nhân vụ cháy. Khi cuộc điều tra hoàn tất, CM-012 được chuyển đến Trung tâm nghiên cứu Langley của NASA ở Hampton, Virginia và đặt trong một nhà kho bảo quản an toàn. Ngày 17 tháng 2 năm 2007, các bộ phận của CM-012 di chuyển sang một nhà kho mới hơn được kiểm soát môi trường. Chỉ vài tuần trước đó, Lowell, anh trai của Gus Grissom, đã công khai đề nghị chôn vùi CM-012 vĩnh viễn trong đống bê tông đổ nát của Tổ hợp Phóng 34.
Vào ngày 27 tháng 1 năm 2017, nhân dịp tưởng niệm 50 năm vụ hỏa hoạn, NASA trưng bày cửa sập của Apollo 1 tại Trung tâm Tên lửa Saturn V (Saturn V Rocket Center) ở Khu liên hợp Du khách Trung tâm Vũ trụ Kennedy. Khu phức hợp này cũng có những đài tưởng niệm chứa các bộ phận của Challenger và Columbia nằm bên trong triển lãm tàu con thoi Atlantis. Scott Grissom, con trai lớn của Gus Grissom, cho biết: "Việc này đã qua lâu rồi. Nhưng chúng tôi rất vui mừng vì điều đó".
Trong văn hóa đại chúng
- Vụ tai nạn và hậu quả là chủ đề cho tập 2, "Apollo One", thuộc miniseries năm 1998 From the Earth to the Moon của HBO.
- Sứ mệnh và vụ tai nạn được đề cập trong loạt phim truyền hình năm 2015 The Astronaut Wives Club của ABC ở các tập 8 ("Rendezvous") và 9 ("Abort").
- Sự cố này là chủ đề cho track "Fire in the Cockpit" từ album năm 2015 The Race for Space của ban nhạc Public Service Broadcasting.
- Sự cố đã xuất hiện trong bộ phim năm 2018 Bước chân đầu tiên.
- Một đoạn kịch ngắn về vụ tai nạn được chiếu ở đầu bộ phim năm 1995 Apollo 13.
- Vụ tai nạn và sự nhấn mạnh sau đó về tính an toàn trong NASA là chủ đề điều tra ở hai tập đầu loạt phim Cuộc chiến không gian của Apple TV+.