✨Dự án Thử nghiệm Apollo-Soyuz
Apollo-Soyuz là sứ mệnh không gian quốc tế có người lái đầu tiên được thực hiện dưới sự hợp tác chung giữa Hoa Kỳ và Liên Xô vào tháng 7 năm 1975. Hàng triệu người trên khắp thế giới đã chứng kiến qua truyền hình khoảnh khắc tàu Apollo của Hoa Kỳ ghép nối với khoang vũ trụ Soyuz của Liên Xô trên quỹ đạo. Dự án này cùng với cái bắt tay lịch sử trong không gian đã trở thành một biểu tượng của sự nới lỏng căng thẳng giữa hai siêu cường trong Chiến tranh Lạnh.
Sứ mệnh được biết đến chính thức với tên gọi Dự án Thử nghiệm Apollo-Soyuz (tiếng Anh: Apollo–Soyuz Test Project (ASTP); , và được nhắc đến phổ biến ở Liên Xô với tên gọi Soyuz-Apollo; người Liên Xô chính thức định danh cho sứ mệnh này là Soyuz 19). Hoa Kỳ đã sử dụng phương tiện bay không đánh số còn sót lại từ các sứ mệnh Apollo bị hủy cho nhiệm vụ, và đây cũng là chuyến bay cuối cùng của một mô-đun Apollo.
3 phi hành gia người Mỹ, Thomas P. Stafford, Vance D. Brand và Deke Slayton, cùng với 2 nhà du hành vũ trụ người Liên Xô, Aleksey Leonov và Valery Kubasov, đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm riêng và chung, trong đó có hiện tượng nhật thực nhân tạo do mô-đun Apollo sắp xếp để các thiết bị trên Soyuz có thể chụp lại hình ảnh về vành nhật hoa của Mặt Trời. Dự án này đã cung cấp nhiều kinh nghiệm kỹ thuật hữu ích cho các chuyến bay không gian hợp tác giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về sau, như chương trình Shuttle-Mir và Trạm Không gian Quốc tế.
Apollo-Soyuz là chuyến bay vũ trụ có người lái cuối cùng của Hoa Kỳ trong gần 6 năm cho đến lần phóng tàu con thoi đầu tiên vào ngày 12 tháng 4 năm 1981, và cũng là chuyến bay không gian trong khoang vũ trụ cuối cùng của Mỹ cho đến sứ mệnh Crew Dragon Demo-2 vào ngày 30 tháng 5 năm 2020.
Bối cảnh lịch sử
Mục đích và chất xúc tác cho sứ mệnh Apollo-Soyuz là chính sách détente giữa hai siêu cường lúc bấy giờ trong Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ và Liên Xô. Căng thẳng đã gia tăng khi Hoa Kỳ tham gia vào chiến sự tại Việt Nam. Trong khi đó, báo chí Liên Xô chỉ trích mạnh mẽ các sứ mệnh không gian Apollo, họ đã in dòng chữ "việc xâm nhập có vũ trang của Mỹ và bù nhìn Sài Gòn vào Lào là sự chà đạp trắng trợn dưới chân luật pháp quốc tế" trên bức ảnh phi vụ phóng Apollo 14 năm 1971. Mặc dù nhà lãnh đạo Xô Viết Nikita Khrushchyov đã đưa ra chính sách hòa hoãn của đất nước trong học thuyết về chung sống hòa bình năm 1956 tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, hai quốc gia dường như vẫn không ngừng xung đột với nhau.
Sau chuyến bay trên quỹ đạo của John Glenn năm 1962, một cuộc trao đổi thư từ giữa Tổng thống John F. Kennedy và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nikita Khrushchyov đã dẫn đến hàng loạt các cuộc thảo luận do Phó quản lý NASA Hugh Dryden cùng nhà khoa học Liên Xô Anatoli Blagonravov đứng đầu. Những buổi đàm phán giữa họ đã dẫn đến việc ký kết hiệp định Dryden-Blagonravov và sau đó được chính thức hóa vào tháng 10 năm 1962, cùng thời điểm hai nước đang ở giữa cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Thỏa thuận được chính thức công bố tại Liên Hợp Quốc vào ngày 5 tháng 12 năm 1962, trong đó kêu gọi hợp tác trao đổi dữ liệu từ các vệ tinh thời tiết, một nghiên cứu về từ trường của Trái Đất, và theo dõi chung vệ tinh khinh khí cầu Echo II của NASA. Kennedy từng gợi ý với Khrushchyov về một cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng có sự hợp tác chung giữa hai nước, nhưng sau khi ông bị ám sát vào tháng 11 năm 1963 và Khrushchyov bị phế truất vào tháng 10 năm 1964, sự cạnh tranh giữa các chương trình không gian có người lái của hai quốc gia ngày càng nóng lên, và những cuộc thảo luận về vấn đề hợp tác trở nên ít phổ biến hơn do quan hệ căng thẳng cùng những tác động quân sự từ hai phía.
Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Liên Xô phóng trạm không gian có người lái đầu tiên trên thế giới là Salyut 1 lên quỹ đạo Trái Đất. Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng phóng thành công sứ mệnh Apollo 14 trước đó vài tháng, đây là sứ mệnh thứ ba đưa con người đổ bộ lên Mặt Trăng. Mỗi bên đều chỉ đưa ra một ít thông tin về những thành tựu mà họ đã đạt được trong giai đoạn này. Những phi hành gia người Mỹ đánh giá rất thấp tàu vũ trụ Soyuz vì đây là phương tiện được thiết kế để điều khiển từ mặt đất, điều này hoàn toàn trái ngược với mô-đun Apollo vốn được thiết kế để bay từ khoang vũ trụ. Cuối cùng, Glynn Lunney, Giám đốc Chương trình thử nghiệm Apollo-Soyuz, đã phải cảnh báo những phi hành gia này về việc bày tỏ sự bất mãn với báo chí do họ đã xúc phạm người Liên Xô.
Với sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô bắt đầu được cải thiện, cũng như dự đoán về một sứ mệnh không gian hợp tác tiềm năng. cam kết hai nước sẽ khởi động Dự án thử nghiệm Apollo-Soyuz vào năm 1975.
ASTP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với chính sách của Liên Xô trong việc giữ bí mật các chi tiết về chương trình không gian của họ với người dân trong nước nói riêng và thế giới nói chung, đặc biệt là người Mỹ. Đây là sứ mệnh không gian đầu tiên của Liên Xô được truyền hình trực tiếp trong quá trình phóng, khi ở trong không gian và trong quá trình hạ cánh. Soyuz 19 cũng là tàu vũ trụ đầu tiên của Liên Xô mà phi hành đoàn nước ngoài được tiếp cận trước chuyến bay; phi hành đoàn Apollo được phép kiểm tra nó cũng như địa điểm phóng và nơi huấn luyện phi hành đoàn, đó là sự chia sẻ thông tin chưa từng có với người Mỹ về bất kỳ chương trình không gian nào của Liên Xô.
Không phải tất cả các phản ứng về ASTP đều tích cực. Nhiều người Mỹ lo ngại rằng ASTP đã dành quá nhiều tín nhiệm cho Liên Xô trong chương trình không gian của họ, đặt họ ngang hàng với những nỗ lực thám hiểm vũ trụ phức tạp của NASA. Người ta lo ngại hơn nữa rằng sự hợp tác hòa bình rõ ràng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ sẽ khiến mọi người tin rằng không có xung đột nào giữa hai siêu cường. Một số nhà báo Liên Xô gọi những người Mỹ chỉ trích sứ mệnh là "những kẻ mị dân chống lại sự hợp tác khoa học với Liên Xô". Nhìn chung, căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã dịu bớt và dự án cũng đặt tiền lệ cho các nhiệm vụ hợp tác không gian trong tương lai.
Phi hành đoàn Apollo
thumb|Từ trái sang phải: Slayton, Brand, Stafford thumb|Phù hiệu phi hành đoàn của Mỹ trong sứ mệnh Apollo/Soyuz