✨Apollo 10
Apollo 10 (18–26 tháng 5 năm 1969) là chuyến bay vào vũ trụ có người lái thứ tư trong chương trình Apollo của Hoa Kỳ, đồng thời là chuyến bay thứ hai trên quỹ đạo quanh Mặt Trăng. Sứ mệnh được nhà điều hành NASA xem như một "buổi tổng duyệt" cho cuộc đổ bộ đầu tiên xuống Mặt Trăng trên Apollo 11. Với loại nhiệm vụ được chỉ định là "F", chuyến bay có mục tiêu thử nghiệm tất cả các bộ phận tàu vũ trụ và thủ tục mà không thực sự hạ cánh và cất cánh.
Sau khi phi thuyền đi tới quỹ đạo vệ tinh tự nhiên của Trái Đất, phi hành gia John Young đã ở lại trên mô-đun chỉ huy và dịch vụ (CSM) trong khi Thomas Stafford cùng Gene Cernan điều khiển Mô-đun Mặt Trăng Apollo (LM) xuống độ cao phía trên bề mặt Mặt Trăng, điểm bắt đầu quá trình hạ cánh bằng động cơ trong một nhiệm vụ đổ bộ. Qua bốn vòng quỹ đạo, hai phi hành gia hội ngộ với Young bên trong CSM và, sau khi CSM hoàn thành quỹ đạo thứ 31 quanh Mặt Trăng, họ cùng quay trở về Trái Đất an toàn.
Dù NASA đã cân nhắc đến việc thực hiện cuộc đổ bộ đầu tiên ngay trên Apollo 10, những người lập kế hoạch sứ mệnh cuối cùng quyết định rằng cần phải tiến hành một chuyến bay tập luyện để hoàn thiện các quy trình và kỹ thuật. Phi hành đoàn đã gặp phải một số vấn đề trong nhiệm vụ như dao động pogo (pogo oscillation) trong giai đoạn phóng và tầng cất cánh (ascent stage) của LM bị lộn nhào không kiểm soát trên quỹ đạo Mặt Trăng trong chuyến bay đơn. Tuy vậy, sứ mệnh vẫn hoàn thành được các mục tiêu chính. Stafford và Cernan đã quan sát và chụp ảnh địa điểm hạ cánh dự kiến của Apollo 11 tại Biển Tĩnh Lặng. Apollo 10 dành tổng cộng 61 giờ, 37 phút bay quanh Mặt Trăng; khoảng tám giờ trong đó, Stafford và Cernan điều khiển LM với Young ở trên CSM. Thời gian phi hành đoàn ở trên vũ trụ là tám ngày. Ngoài ra, Apollo 10 còn lập kỷ lục về tốc độ cao nhất của một phương tiện có người lái: 39.897 km/h (11,08 km/s hoặc 24.791 mph) vào ngày 26 tháng 5 năm 1969, trong khi trở về từ Mặt Trăng.
Các tín hiệu gọi của nhiệm vụ đều xuất phát từ tên nhân vật trong comic strip Peanuts, với Charlie Brown dành cho CSM và Snoopy dành cho LM; đây còn là các linh vật bán chính thức của Apollo 10. Người sáng tạo ra Peanuts là Charles Schulz cũng đã vẽ các tác phẩm nghệ thuật liên quan đến sứ mệnh cho NASA.
Cơ cấu
Bối cảnh
Năm 1967, NASA lập ra danh sách các loại nhiệm vụ được ký hiệu bằng chữ cái, cần phải thực hiện trước khi tiến hành cuộc đổ bộ, hay nhiệm vụ loại "G". Các chuyến bay không người lái đầu tiên được coi là nhiệm vụ loại "A" hoặc "B", trong khi Apollo 7, chuyến bay thử nghiệm có người lái của mô-đun chỉ huy và dịch vụ, là nhiệm vụ loại "C". Cuộc thử nghiệm có phi hành đoàn đầu tiên trên quỹ đạo của Mô-đun Mặt Trăng đã được tiến hành trong một sứ mệnh loại "D" là Apollo 9. Apollo 8, vốn bay tới quỹ đạo Mặt Trăng mà không có LM, được coi là sứ mệnh loại "C-prime", nhưng thành công của nó đã mang lại cho NASA sự tự tin để bỏ qua sứ mệnh loại "E", thử nghiệm toàn bộ tàu vũ trụ Apollo trên quỹ đạo Trái Đất tầm trung hoặc tầm cao. Apollo 10, buổi tổng duyệt cho cuộc đổ bộ Mặt Trăng, sẽ là nhiệm vụ loại "F". Tuy nhiên, Giám đốc Điều hành Chuyến bay Christopher C. Kraft và những nhân sự khác phản đối điều này. Họ cảm thấy rằng cần phải phát triển các thủ tục mới cho một cuộc gặp gỡ trên quỹ đạo quanh vệ tinh tự nhiên của Trái Đất và NASA đã có thông tin không đầy đủ về nồng độ khối lượng (mass concentration) Mặt Trăng, vốn có thể làm thay đổi đường bay phi thuyền. Sau khi lắng nghe lập luận từ cả hai phía, Giám đốc Chương trình Apollo là Trung tướng Sam Phillips quyết định rằng việc tiến hành một cuộc tổng duyệt là rất quan trọng.
Phi hành đoàn và nhân viên Kiểm soát Sứ mệnh chủ chốt
Ngày 13 tháng 11 năm 1968, NASA công bố phi hành đoàn của Apollo 10. Thành viên thứ hai là Phi công Mô-đun Chỉ huy John Young, 38 tuổi, đang giữ quân hàm chỉ huy ở Hải quân vào thời điểm phóng Apollo 10. Young tốt nghiệp Học viện Công nghệ Georgia năm 1952 rồi gia nhập Hải quân, sau đó trở thành phi công thử nghiệm vào năm 1959. Ông cũng được chọn vào nhóm phi hành gia thứ hai cùng với Stafford và đã bay trên Gemini 3 với Gus Grissom vào năm 1965, chuyến bay giúp ông trở thành người Mỹ đầu tiên không thuộc nhóm Mercury Seven đi vào không gian. Sau đó, Young chỉ huy Gemini 10 (1966), bay cùng Michael Collins. Thành viên cuối cùng là Phi công Mô-đun Mặt Trăng Eugene Cernan, một chỉ huy 35 tuổi của Hải quân vào thời điểm phóng Apollo 10. Cernan tốt nghiệp Đại học Purdue năm 1952 và gia nhập Hải quân ngay sau đó. Ông là thành viên của nhóm phi hành gia thứ ba (1963), từng bay cùng Stafford trên Gemini 9A trước khi được phân vào Apollo 10. Với tổng cộng năm chuyến bay trước khi đảm nhận nhiệm vụ, phi hành đoàn Apollo 10 là tổ bay có nhiều kinh nghiệm du hành không gian nhất cho đến kỷ nguyên tàu con thoi, và là chuyến bay vũ trụ đầu tiên của Mỹ có thành viên đều là những phi hành gia kỳ cựu.
Phi hành đoàn dự phòng cho Apollo 10 gồm có L. Gordon Cooper Jr làm chỉ huy, Donn F. Eisele làm phi công mô-đun chỉ huy và Edgar D. Mitchell làm phi công mô-đun Mặt Trăng. Theo trình tự luân phiên phi hành đoàn trong chương trình Apollo, Cooper, Eisele và Mitchell sẽ bay trên Apollo 13, tuy nhiên Cooper và Eisele đã không tiếp tục bay. Giám đốc Điều hành Phi hành đoàn Deke Slayton cảm thấy Cooper không tập luyện đủ chăm chỉ. Eisele thì bị cấm bay vì những lùm xùm với tư cách CMP trong sứ mệnh Apollo 7, nhiệm vụ chứng kiến nhiều xung đột giữa phi hành đoàn với bộ phận kiểm soát mặt đất; ông cũng đã trải qua một cuộc ly hôn đầy rắc rối. Slayton chỉ bổ nhiệm họ làm phi hành gia dự phòng vì ông không còn nhiều cái tên kỳ cựu có thể đảm nhận vị trí này. Cooper và Eisele lần lượt được thay thế bởi Alan Shepard và Stuart Roosa. Cảm thấy họ cần thêm thời gian đào tạo, George Mueller đã loại bỏ phi hành đoàn Apollo 13. Tổ bay sau đó được luân chuyển sang Apollo 14, sứ mệnh chứng kiến Shepard và Mitchell đi bộ trên bề mặt Mặt Trăng.
Đối với các dự án Mercury và Gemini, chỉ có một phi hành đoàn chính và một phi hành đoàn dự phòng. Trong chương trình Apollo, sẽ có thêm một nhóm phi hành gia thứ ba gọi là phi hành đoàn hỗ trợ. Slayton đã thành lập các phi hành đoàn hỗ trợ vào giai đoạn đầu của chương trình theo lời khuyên từ McDivitt, người sẽ chỉ huy Apollo 9. McDivitt tin rằng, với sự chuẩn bị đang diễn ra tại các cơ sở trên khắp Hoa Kỳ, các cuộc họp cần có sự tham gia của thành viên phi hành đoàn chuyến bay sẽ bị bỏ lỡ. Các thành viên đội hỗ trợ sẽ tham dự theo chỉ đạo của người chỉ huy nhiệm vụ. Do thường có thâm niên thấp, họ được giao nhiệm vụ tập hợp và cập nhật các quy tắc của sứ mệnh, kế hoạch bay và danh sách kiểm tra. Đối với Apollo 10, phi hành đoàn hỗ trợ gồm Joe Engle, James Irwin và Charles Duke.
Các giám đốc chuyến bay là Gerry Griffin, Glynn Lunney, Milt Windler và Pete Frank. Trong chương trình Apollo, vị trí này có mô tả công việc chỉ gồm một câu: "Giám đốc chuyến bay có thể thực hiện bất kỳ hành động nào cần thiết cho sự an toàn của phi hành đoàn và thành công của nhiệm vụ". Liên lạc viên khoang vũ trụ (capsule communicator, viết tắt là CAPCOM) gồm có Duke, Engle, Jack Lousma và Bruce McCandless II.
Tín hiệu gọi và huy hiệu sứ mệnh
thumb|left|Stafford chạm vào một con búp bê "Snoopy" trên đường ra bệ phóng.
Mô-đun chỉ huy có tín hiệu gọi là "Charlie Brown" còn mô-đun Mặt Trăng là "Snoopy", dựa trên tên của các nhân vật trong comic strip Peanuts là Charlie Brown và Snoopy. Chúng được các phi hành gia lựa chọn với sự chấp thuận của người sáng tạo ra bộ truyện Charles Schulz, Hình tượng Snoopy đã gắn bó một thời gian với chương trình vũ trụ: những công nhân có thành tích xuất sắc sẽ nhận một "chiếc ghim Snoopy" bạc, và áp phích Snoopy cũng xuất hiện tại nhiều cơ sở của NASA, với chiếc nón phi công thời Đệ nhất Thế chiến của chú chó hoạt hình được đổi thành mũ bảo hiểm phi hành gia.
thumb|Huy chương Robbins bạc bay trên Apollo 10Huy hiệu sứ mệnh có hình chiếc khiên với một chữ số La Mã X ba chiều lớn nằm trên bề mặt Mặt Trăng, mà theo lời Stafford là "nhằm cho thấy rằng chúng tôi đã để lại dấu ấn của mình". Mặc dù không hạ cánh, nhưng việc con số được làm nổi bật có tác dụng tượng trưng cho những đóng góp của sứ mệnh này đối với chương trình Apollo. Ngoài ra, còn có một CSM quay vòng quanh Mặt Trăng trong khi tầng cất cánh của LM bay lên từ bề mặt sau khi tiếp cận ở độ cao thấp với động cơ đang đốt cháy. Trái Đất có thể nhìn thấy ở phía sau. Trên miếng vá (patch) nhiệm vụ, một đường viền rộng màu xanh dương nhạt có chữ APOLLO ở trên cùng và tên phi hành đoàn ở phía dưới. Miếng vá được viền màu vàng. Huy hiệu do nhân viên Allen Stevens của Rockwell International thiết kế.
Huấn luyện và chuẩn bị
thumb|left|Stafford (phải) và Cernan bên trong thiết bị mô phỏng mô-đun Mặt Trăng, tháng 4 năm 1969 Apollo 10, sứ mệnh loại "F" hay buổi tổng duyệt cho cuộc đổ bộ Mặt Trăng, có mục tiêu chính là chứng minh hiệu suất của phi hành đoàn, tàu vũ trụ và các phương tiện hỗ trợ sứ mệnh trong một nhiệm vụ có người lái lên quỹ đạo Mặt Trăng, cũng như đánh giá hiệu suất của mô-đun Mặt Trăng tại đó. Ngoài ra, sứ mệnh cũng sẽ chụp ảnh địa điểm hạ cánh Apollo Landing Site 2 (ALS-2) tại Biển Tĩnh Lặng, bãi đáp dự kiến của Apollo 11. Theo Stafford,
Chuyến bay của chúng tôi sẽ đưa mô-đun Mặt Trăng đầu tiên lên Mặt Trăng. Chúng tôi sẽ dùng mô-đun Mặt Trăng bay xuống cách bề mặt khoảng mười dặm, cách những ngọn núi chín dặm, sử dụng bản đồ radar và bản đồ ảnh, chọn địa điểm hạ cánh đầu tiên, thực hiện cuộc gặp gỡ đầu tiên quanh Mặt Trăng, chọn một số địa điểm hạ cánh trong tương lai, rồi trở về nhà.
Apollo 10 phải tuân thủ chặt chẽ nhất có thể các kế hoạch cho Apollo 11, bao gồm cả đường bay đến và đi từ quỹ đạo quanh Mặt Trăng, dòng thời gian của các sự kiện nhiệm vụ và thậm chí cả góc của Mặt Trời tại ALS-2. Tuy nhiên, không có cuộc hạ cánh nào được thực hiện. ALS-1, mang con số này do nó là địa điểm xa nhất về phía đông trong số các bãi đáp ứng cử viên, cũng nằm ở Biển Tĩnh Lặng, vốn đã được các phi hành gia Apollo 8 chụp ảnh rất nhiều; theo đề xuất của nhà khoa học-phi hành gia Harrison Schmitt, phi vụ phóng Apollo 10 đã bị hoãn lại một ngày để có thể chụp ảnh ALS-2 trong điều kiện thích hợp. ALS-2 được chọn làm địa điểm hạ cánh trên Mặt Trăng vì nơi đây tương đối bằng phẳng, có giá trị khoa học, và ALS-1 thì lại nằm quá xa về phía đông. Do đó, khi lịch phóng của Apollo 10 được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 1969, nó đã được thay đổi từ ngày giữ chỗ là 1 tháng 5 sang 17 tháng 5, thay vì 16 tháng 5. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1969, phi vụ phóng bị lùi lại sang ngày 18 tháng 5 để có thể quan sát rõ hơn ALS-3, vốn nằm ở phía tây ALS-2.
Trang thiết bị
Tầng hạ cánh của LM được chuyển đến KSC vào ngày 11 tháng 10 năm 1968, còn tầng cất cánh có mặt sau đó năm ngày. Chúng được ghép lại vào ngày 2 tháng 11. Mô-đun Dịch vụ (SM) và Mô-đun Chỉ huy (CM) đến KSC vào ngày 24 tháng 11 và cũng được ghép lại hai ngày sau đó. Các bộ phận của Saturn V tới nơi vào tháng 11 và tháng 12 năm 1968, sau đó toàn bộ tên lửa đẩy được dựng lên tại Tòa nhà Lắp ráp Phương tiện (VAB) vào ngày 30 tháng 12. Sau khi thử nghiệm trong buồng độ cao, các kỹ thuật viên đặt CSM lên đỉnh tên lửa đẩy vào ngày 6 tháng 2 năm 1969. Ngày 11 tháng 3 năm 1969, phương tiện vũ trụ hoàn chỉnh được đưa đến Tổ hợp Phóng 39B – do lắp ráp tại High Bay 2 của VAB (lần sử dụng đầu tiên của khu vực này) nên xe kéo phải thoát ra từ phía sau VAB trước khi vòng quanh tòa nhà và nhập vào Crawlerway, tiến tới bệ phóng.
Phương tiện phóng của Apollo 10 là Saturn V, mang định danh AS-505, chiếc Saturn V thứ năm đủ điều kiện bay được phóng và là chiếc thứ ba đưa phi hành gia lên quỹ đạo. Mẫu Saturn V này khác với loại dùng trên Apollo 9 ở chỗ có trọng lượng khô (không có thuốc phóng) thấp hơn ở hai tầng đầu tiên, với sự giảm trọng lượng đáng kế ở interstage kết nối hai tầng. Mặc dù tầng thứ ba S-IVB nặng hơn một chút, cả ba tầng đều có thể mang trọng lượng thuốc phóng nhiều hơn và tầng thứ hai S-II trong nhiệm vụ này tạo ra lực đẩy lớn hơn so với trên Apollo 9.
Tàu vũ trụ Apollo dành cho Apollo 10 bao gồm Mô-đun Chỉ huy 106 (CM-106), Mô-đun Dịch vụ 106 (SM-106, cùng với CM được gọi là CSM-106), Mô-đun Mặt Trăng 4 (LM-4), adapter tàu vũ trụ-mô-đun Mặt Trăng (spacecraft-lunar module adapter, SLA), được đánh số là SLA-13A, cùng một hệ thống thoát hiểm khi phóng (launch escape system). SLA là cấu trúc nối Instrument Unit trên tầng S-IVB của tên lửa đẩy Saturn V với CSM, và hoạt động như một vỏ bọc cho LM, trong khi hệ thống thoát hiểm khi phóng (LES) chứa các tên lửa để đẩy CM đến nơi an toàn nếu phi vụ phóng bị hủy bỏ. Với trọng lượng khoảng 76,99 tấn, Apollo 10 sẽ là tàu vũ trụ nặng nhất đạt đến quỹ đạo vào thời điểm đó. và là chuyến bay duy nhất được kiểm soát từ phòng điều khiển đốt cháy Firing Room 3.
Các vấn đề phát sinh khi đếm ngược đều được giải quyết trong thời gian built-in hold và không làm ảnh hưởng đến lịch trình nhiệm vụ. Một ngày trước vụ phóng, Cernan đã bị chặn lại vì chạy quá tốc độ khi đang trở về sau chuyến thăm cuối cùng với vợ con. Không mang theo giấy tờ tùy thân và cũng được lệnh cấm tiết lộ thân phận, Cernan về sau chứng thực trong tự truyện của mình rằng ông đã lo sợ bản thân sẽ bị bắt. Trưởng nhóm bệ phóng Gunther Wendt sau khi nhận ra Cernan đã dừng xe lại gần đó và giải thích tình hình với cảnh sát. Cernan cuối cùng được thả nhưng phía cảnh sát vẫn tỏ ra nghi ngờ việc ông chính là một phi hành gia.
thumb|left|Kiểm soát Sứ mệnh ở Houston trong một buổi phát hình Apollo 10 Phi hành đoàn đã có một chuyến đi khá gập ghềnh trên đường tới quỹ đạo do dao động pogo. Khoảng 12 phút sau khi cất cánh, tàu vũ trụ đi vào quỹ đạo Trái Đất tầm thấp với điểm cao nhất là và điểm thấp nhất là . Giai đoạn đánh giá hệ thống trên quỹ đạo Trái Đất diễn ra bình thường như kế hoạch, sau đó tầng thứ ba S-IVB được khởi động lại để thực hiện quá trình phóng chuyển tiếp Mặt Trăng (TLI), đưa tàu về phía vệ tinh tự nhiên của Trái Đất. Phương tiện lại rung lắc khi thực hiện đốt cháy TLI, khiến Cernan lo ngại về khả năng phải hủy bỏ. Tuy nhiên, quá trình đốt cháy TLI đã hoàn tất mà không có sự cố nào xảy ra. Sau đó, Young thực hiện thao tác đổi chỗ, ghép nối và tách rời (_transposition, docking, and extractio_n), tách CSM khỏi tầng S-IVB, quay CSM lại, và ghép mũi phi thuyền vào đỉnh mô-đun Mặt Trăng trước khi tách tổ hợp tàu vũ trụ khỏi S-IVB. Apollo 10 là sứ mệnh đầu tiên mang theo một camera truyền hình màu bên trong tàu, giúp những người điều khiển sứ mệnh ở Houston có thể theo dõi quá trình thực hiện thao tác này của Young. Ngay sau đó, đông đảo khán giả truyền hình đã được chiêm ngưỡng những hình ảnh màu về Trái Đất. Một vấn đề gặp phải là lớp phủ mylar của cửa sập CM bị bong ra, khiến một lượng lớn vật liệu cách nhiệt bằng sợi thủy tinh đổ vào đường hầm, sau đó tràn tới cả CM và LM. Nhận được mệnh lệnh từ mặt đất, S-IVB khai hỏa và đi vào quỹ đạo quanh Mặt Trời với chu kỳ 344,88 ngày.
Phi hành đoàn đã ổn định mọi thứ cho hành trình đến Mặt Trăng. Với khối lượng công việc nhẹ nhàng, họ dành ra phần lớn thời gian để nghiên cứu kế hoạch bay hoặc ngủ. Các phi hành gia thực hiện thêm năm buổi phát sóng truyền về Trái Đất và được thông báo rằng có hơn một tỷ người đã theo dõi một phần hoạt động của họ. Về sau vào tháng 6 năm 1969, tổ bay này sẽ nhận Giải Emmy đặc biệt thay mặt bốn phi hành đoàn Apollo đầu tiên cho các chương trình truyền hình từ không gian. Các thành viên sau đó nhận thấy cần phải thực hiện một điều chỉnh nhỏ về đường đi; quá trình này diễn ra vào lúc 26:32:56,8 và kéo dài 7,1 giây, giúp căn chỉnh Apollo 10 với quỹ đạo dự kiến của Apollo 11. Một vấn đề gặp phải là mùi vị của thức ăn, vì Stafford dường như đã sử dụng gấp đôi liều lượng chlor trong nước uống, thứ được cho vào thức ăn khô để hoàn nguyên. Ngay sau khi đốt cháy làm tròn, phi hành đoàn đã tham gia chương trình phát sóng truyền hình màu kéo dài nửa giờ theo lịch trình, trong đó họ mô tả và truyền những video về quang cảnh bề mặt Mặt Trăng bên dưới.
Khoảng một giờ sau khi đốt cháy lần hai, phi hành đoàn của LM gồm Stafford và Cernan bước vào mô-đun này để kiểm tra hệ thống. Bên trong, những hạt sợi thủy tinh bay đầy như bão tuyết do sự cố trước đó, khiến hai phi hành gia phải dùng máy hút bụi để dọn dẹp hết mức có thể. Stafford đã giúp Cernan gỡ những mảnh nhỏ hơn trên tóc và lông mày. Viên chỉ huy sau đó nhận xét Cernan trông như vừa bước ra khỏi chuồng gà, các mảnh vụn thì khiến họ cảm thấy ngứa ngáy, chúng bám vào hệ thống điều hòa không khí, buộc họ phải cạo ra khỏi lưới lọc để tiếp tục nhiệm vụ. Sau khi ngắt ghép nối, Stafford cùng Cernan triển khai thiết bị hạ cánh và kiểm tra các hệ thống của LM. CSM đã thực hiện cú đốt cháy trong 8,3 giây bằng các động cơ đẩy RCS để tách ra khỏi LM một khoảng , kế tiếp là bước kiểm tra trực quan LM từ CSM của Young. CSM lại tiến hành một lần đốt cháy để tách rời khác, lần này đẩy hai tàu vũ trụ ra khoảng . Sau đó, phi hành đoàn LM thực hiện thao tác đưa tàu vào quỹ đạo hạ cánh (descent orbit insertion) bằng cách khởi động động cơ hạ cánh trong 27,4 giây ở thời điểm 99:46:01,6, đồng thời thử nghiệm radar hạ cánh của tàu vũ trụ khi chúng đi xuống độ cao , nơi sứ mệnh Apollo 11 tiếp theo sẽ bắt đầu quá trình hạ thấp bằng động cơ để đáp xuống Mặt Trăng. Trước đây, radar hạ cánh của LM chỉ được thử nghiệm ở điều kiện trên Trái Đất. Trong lúc LM thực hiện các thao tác này, Young đảm nhận việc theo dõi vị trí cũng như tình trạng của mô-đun từ CSM và sẵn sàng giải cứu phi hành đoàn LM nếu cần thiết. Cernan và Stafford đã khảo sát ALS-2 sau khi tiến đến độ cao phía trên bề mặt tại một điểm cách 15 độ về hướng đông mục tiêu. Tiếp theo, hai phi hành gia thực hiện đốt cháy pha (phasing burn) lúc 100:58:25,93, đẩy phi thuyền trong vòng chưa đầy 40 giây để cho phép bay qua ALS-2 lần thứ hai. Lúc này, tàu vũ trụ ở cách Mặt Trăng , cũng là khoảng cách gần bề mặt nhất mà nó tiếp cận. Báo cáo về những quan sát từ các lần bay thấp của LM, Stafford chỉ ra rằng ALS-2 có vẻ mượt mà hơn ông mong đợi và mô tả bề ngoài nơi này giống với vùng hoang mạc xung quanh Blythe, California; nhưng ông cũng nhận thấy Apollo 11 có thể phải đối mặt với địa hình gồ ghề hơn nếu tiếp cận lệch mục tiêu. Dựa trên những quan sát của Apollo 10 từ độ cao tương đối thấp, những nhà lập kế hoạch sứ mệnh của NASA đã tin tưởng ALS-2 và xác nhận đây sẽ là địa điểm mục tiêu của Apollo 11.
thumb|left|LM Snoopy chở Stafford và Cernan lúc được Young kiểm tra sau khi tách khỏi Charlie Brown Công việc kế tiếp là chuẩn bị cho bước tách tầng cất cánh của LM khỏi tầng hạ cánh, sau đó loại bỏ tầng hạ cánh và khởi động hệ thống đẩy cất cánh để đưa tầng cất cánh về phía CSM. Khi Stafford và Cernan chuẩn bị tiến hành, LM bỗng bắt đầu quay tròn mất kiểm soát. Quá hoảng sợ, Cernan hét lên "Khốn kiếp!" vào một chiếc micro đang bật trên sóng trực tiếp; hành động này cùng với những từ ngữ khác mà phi hành đoàn sử dụng trong suốt nhiệm vụ đã gây ra một số lời phàn nàn ở Trái Đất. Stafford loại bỏ được tầng hạ cánh sau khi bắt đầu lộn nhào khoảng năm giây và cố gắng giành lại quyền kiểm soát một cách thủ công; viên chỉ huy nghi ngờ rằng có thể một động cơ đẩy vẫn đang hoạt động. Ông đã thành công giành lại quyền kiểm soát kịp thời để định hướng tàu vũ trụ nhằm ghép nối lại với Charlie Brown. Vấn đề được xác định là do công tắc điều khiển chế độ của hệ thống dẫn đường khi hủy bỏ (abort guidance system); công tắc này phải được gạt theo quy trình, nhưng do cả hai thành viên phi hành đoàn đều chuyển công tắc nên đã đưa nó trở về vị trí ban đầu. Nếu phóng Snoopy sai hướng, họ có thể sẽ bỏ lỡ cuộc gặp gỡ với Charlie Brown hoặc đâm vào Mặt Trăng. Khi Stafford lấy lại quyền kiểm soát tầng cất cánh của LM sau khoảng tám giây, cặp đôi đã khởi động động cơ cất cánh ở điểm thấp nhất trong quỹ đạo của LM, mô phỏng thao tác đưa tàu vào quỹ đạo sau khi phóng từ bề mặt Mặt Trăng trong một nhiệm vụ hạ cánh tương lai. Snoopy lướt theo quỹ đạo đó trong khoảng một giờ trước khi khai hỏa lại động cơ để tiếp tục điều chỉnh cách tiếp cận Charlie Brown.
thumb|right|Video Trái Đất mọc được quay bởi phi hành đoàn Apollo 10 Snoopy đã gặp và ghép nối lại với Charlie Brown vào lúc 106:22:02, chưa đầy tám giờ sau khi tách rời. Sự kiện ghép nối được truyền hình trực tiếp có màu từ mô-đun chỉ huy và dịch vụ. Sau khi Cernan cùng với Stafford quay lại Charlie Brown, các phi hành gia chốt kín Snoopy và tách LM này khỏi CSM. Phần nhiên liệu còn lại trong động cơ tầng cất cánh của LM đã được đốt cháy để đưa nó vào đường đi bay vượt qua Mặt Trăng và tiến vào quỹ đạo nhật tâm.
Đây là Apollo LM duy nhất có kết thúc như vậy. Tầng cất cánh của Apollo 11 về sau đã bị bỏ lại trên quỹ đạo Mặt Trăng để rơi xuống một cách ngẫu nhiên, trong khi tầng cất cánh của những sứ mệnh Apollo tiếp theo (12, 14, 15 và 17) được cho đâm vào Mặt Trăng để thu thập số liệu từ các địa chấn kế đặt gần bề mặt, với hai trường hợp ngoại lệ: tầng cất cánh của Apollo 13, được phi hành đoàn sử dụng như một "xuồng cứu sinh" nhằm trở về Trái Đất an toàn trước khi thả ra để cháy rụi trong bầu khí quyển Trái Đất, và tầng cất cánh của Apollo 16, thứ mà NASA đã mất quyền kiểm soát sau khi loại bỏ. Nguyên nhân xuất phát từ việc quỹ đạo quay trở lại được thiết kế chỉ mất 42 giờ thay vì 56 giờ như thường lệ. Phi hành đoàn Apollo 10 cũng đã di chuyển xa hơn bất kỳ con người nào từ trước đến nay so với nhà của họ (Houston): (mặc dù tổ bay Apollo 13 ở cách Trái Đất xa hơn 200 km so với Apollo 10).
191:33:26 trong sứ mệnh, CM (chở phi hành đoàn) tách khỏi SM để chuẩn bị tái thâm nhập, vốn diễn ra 15 phút sau đó vào lúc 191:48:54,5. Khoảng 15 phút sau khi đi vào khí quyển, CM đáp xuống biển ở Thái Bình Dương, cách Samoa thuộc Mỹ về phía đông vào 16:52:23 ngày 26 tháng 5 năm 1969 (UTC). Thời gian thực hiện nhiệm vụ là 192:03:23. Các phi hành gia được đón bởi tàu sân bay . Trong thời gian bốn giờ ở trên tàu, phi hành đoàn đã nhận được một cuộc điện thoại chúc mừng từ Tổng thống Richard Nixon.
Kết quả
Các hoạt động trên quỹ đạo và việc điều khiển LM một mình đi xuống gần bề mặt Mặt Trăng đã mở đường cho nỗ lực đổ bộ thành công của Apollo 11 thông qua việc chứng minh khả năng của phần cứng và hệ thống trong sứ mệnh. Phi hành đoàn đã cho thấy các thủ tục kiểm tra của LM và quá trình hạ cánh, gặp gỡ ban đầu có thể được thực hiện trong thời gian quy định. Ngoài ra, Apollo 10 còn chỉ ra rằng hệ thống liên lạc của LM là phù hợp, rằng radar cuộc hẹn và hạ cánh của LM sẽ hoạt động trên quỹ đạo Mặt Trăng, và hai tàu vũ trụ này có thể được nhân sự trên Trái Đất theo dõi đầy đủ. Độ chính xác của việc định vị trên quỹ đạo Mặt Trăng cũng được cải thiện thông qua Apollo 10 và khi kết hợp với dữ liệu từ Apollo 8, NASA hy vọng rằng họ đã đạt được đủ độ chính xác để thực hiện lần hạ cánh có người lái đầu tiên xuống Mặt Trăng. Sau khoảng hai tuần phân tích dữ liệu từ Apollo 10, đội kiểm tra khả năng sẵn sàng bay của NASA đã cho phép Apollo 11 tiếp tục nhiệm vụ theo lịch trình. Ngày 16 tháng 7 năm 1969, chiếc Saturn V tiếp theo phóng lên mang theo các phi hành gia Apollo 11: Neil Armstrong, Buzz Aldrin và Michael Collins. Vào ngày 20 tháng 7, Armstrong cùng Aldrin đáp xuống Mặt Trăng, và bốn ngày sau, ba phi hành gia trở về Trái Đất, hoàn thành thách thức mà Tổng thống John F. Kennedy đặt ra đối với người Mỹ là đưa phi hành gia lên Mặt Trăng và mang họ trở về Trái Đất an toàn trước khi kết thúc thập niên 1960.
Tháng 7 năm 1969, Stafford thay Alan Shepard làm chánh văn phòng phi hành gia và sau đó trở thành phó giám đốc điều hành phi hành đoàn dưới quyền Deke Slayton. SM của Charlie Brown bị loại bỏ ngay trước khi quay trở lại Trái Đất và bốc cháy trong bầu khí quyển, làm phân tán những mảnh vỡ khắp Thái Bình Dương.
Sau khi phóng chuyển tiếp Mặt Trăng, tầng thứ ba S-IVB của Saturn V đã được gia tốc vượt qua vận tốc thoát của Trái Đất để trở thành mảnh vỡ vũ trụ; tính đến năm 2020, tầng tên lửa này vẫn nằm trong quỹ đạo quanh Mặt Trời.
Tầng cất cánh của Mô-đun Mặt Trăng Snoopy đã bị ném vào quỹ đạo nhật tâm. Đường bay của nó không được theo dõi sau năm 1969 và trở nên bặt vô âm tính. Vào năm 2011, một nhóm các nhà thiên văn học nghiệp dư tại Anh bắt đầu dự án tìm kiếm. Tháng 6 năm 2019, Hội Thiên văn Vương thất công bố một phát hiện tiềm năng; họ xác định rằng tiểu hành tinh nhỏ bay qua Trái Đất 2018 AV2 có khả năng là Snoopy với độ chắc chắn "98%". Đây là phi thuyền duy nhất được biết từng chở người vẫn còn ở ngoài vũ trụ mà không có phi hành đoàn.
Tầng hạ cánh của Snoopy thì bị loại bỏ trên quỹ đạo Mặt Trăng; dù vẫn chưa xác định được vị trí hiện tại nhưng có khả năng nó đã đâm vào vệ tinh này do sự phân rã quỹ đạo. Nhà khoa học hành tinh Phil Stooke từng nghiên cứu các địa điểm va chạm trên Mặt Trăng của tầng cất cánh. Stooke viết rằng tầng hạ cánh "đã rơi ở một địa điểm không xác định", trong khi một nguồn tin khác cho biết tầng hạ cánh "cuối cùng [đã] va chạm [đâu đó] trong phạm vi một vài độ gần xích đạo ở nửa nhìn thấy được của Mặt Trăng". Trong sách tài liệu (sourcebook) về chương trình Apollo, Richard Orloff và David M. Harland nêu rằng "tầng hạ cánh được để lại ở quỹ đạo tầm thấp, nhưng sự nhiễu loạn gây ra bởi các 'mascon' sẽ khiến quỹ đạo này bị phân rã, dẫn đến việc tầng hạ cánh rơi xuống bề mặt Mặt Trăng".