✨Apollo 7
Apollo 7 (11–22 tháng 10 năm 1968) là chuyến bay có người lái đầu tiên thuộc chương trình không gian Apollo của NASA. Sứ mệnh cũng chứng kiến cơ quan này tiếp tục các chuyến bay đưa con người vào vũ trụ kể từ sau vụ hỏa hoạn khiến ba phi hành gia Apollo 1 thiệt mạng trong cuộc thử nghiệm diễn tập cho phi vụ phóng vào ngày 27 tháng 1 năm 1967. Chỉ huy của phi hành đoàn Apollo 7 là Walter M. Schirra, với Donn F. Eisele làm phi công mô-đun chỉ huy và R. Walter Cunningham đảm nhiệm chức vụ phi công mô-đun Mặt Trăng (ông đã được chỉ định như vậy mặc dù Apollo 7 không mang theo Mô-đun Mặt Trăng).
Ba phi hành gia này ban đầu được lựa chọn để tham gia chuyến bay có người lái thứ hai trong chương trình Apollo và sau đó trở thành phi hành đoàn dự phòng cho Apollo 1. Sau vụ hỏa hoạn Apollo 1, các nhiệm vụ có người lái đã bị đình chỉ trong thời gian điều tra nguyên nhân tai nạn và thực hiện những cải tiến đối với tàu vũ trụ, các quy trình an toàn cũng như tiến hành những chuyến bay thử nghiệm không người lái. Phi hành đoàn rất quyết tâm trong việc ngăn chặn hoả hoạn tái diễn; họ đã dành nhiều thì giờ theo dõi việc xây dựng các mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo (CSM) cho sứ mệnh. Quá trình huấn luyện vẫn được tiếp tục trong phần lớn khoảng thời gian tạm dừng kéo dài 21 tháng sau thảm họa.
Apollo 7 được phóng lên từ Trạm không quân Mũi Kennedy ở Florida vào ngày 11 tháng 10 năm 1968 và rơi xuống Đại Tây Dương sau mười một ngày. Sứ mệnh đã chứng kiến việc thử nghiệm bao quát đối với CSM và lần phát sóng trực tiếp đầu tiên từ tàu vũ trụ của Mỹ. Bất chấp căng thẳng giữa phi hành đoàn và những người điều khiển mặt đất, nhiệm vụ hoàn toàn thành công về mặt kỹ thuật, giúp NASA tự tin đưa Apollo 8 vào quỹ đạo quanh Mặt Trăng hai tháng sau đó. Một phần vì những căng thẳng này, không ai trong số phi hành đoàn bay vào vũ trụ nữa, mặc dù Schirra từng thông báo trước đó rằng ông sẽ nghỉ việc tại NASA sau chuyến bay. Apollo 7 đã hoàn thành nhiệm vụ thử nghiệm CSM của Apollo 1 trên quỹ đạo Trái Đất tầm thấp và đánh dấu một bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu đưa phi hành gia hạ cánh xuống Mặt Trăng của NASA.
Bối cảnh và nhân sự
Nhân sự thứ nhất là Schirra, một trong những phi hành gia của nhóm "Mercury Seven" thời đầu. Năm 1945, Schirra tốt nghiệp Học viện Hải quân Hoa Kỳ. 17 năm sau, ông bay trên Mercury-Atlas 8, chuyến bay thứ năm có người lái của Dự án Mercury và là chuyến bay thứ ba lên quỹ đạo, sau đó ông trở thành phi công chỉ huy cho Gemini 6A vào năm 1965. Vào thời điểm phóng Apollo 7, ông đang 45 tuổi và có quân hàm đại tá hải quân. Nhân sự thứ hai là Eisele. Năm 1952, Eisele tốt nghiệp Học viện Hải quân với bằng B.S. trong lĩnh vực hàng không. Ông quyết định gia nhập Không quân và là thiếu tá vào lúc tiến hành sứ mệnh, khi đó ông ở tuổi 38. Nhân sự thứ ba là Cunningham. Ông gia nhập Hải quân Hoa Kỳ năm 1951, bắt đầu huấn luyện bay vào năm sau và phục vụ trong phi đoàn Thủy quân lục chiến từ năm 1953 đến năm 1956. Vào thời điểm phóng Apollo 7, ông là một thường dân 36 tuổi, đang phục vụ trong lực lượng dự bị của Thủy quân lục chiến với cấp bậc thiếu tá. Ông có nhiều bằng cấp trong lĩnh vực vật lý của Đại học California, Los Angeles, gồm bằng B.A. năm 1960 và bằng Thạc sĩ năm 1961. Cả Eisele và Cunningham đều được chọn vào nhóm phi hành gia thứ ba của NASA vào năm 1963.
Eisele ban đầu được xếp vào một vị trí trong phi hành đoàn Apollo 1 của Gus Grissom cùng với Ed White, nhưng không lâu trước khi có thông báo chính thức vào ngày 25 tháng 3 năm 1966, Eisele đã bị dính chấn thương vai và cần phải phẫu thuật. Roger Chaffee thay ông đảm nhận vị trí này và Eisele được bổ nhiệm lại vào phi hành đoàn của Schirra. thumb|right|Phi hành đoàn của Schirra trong quá trình huấn luyện cho sứ mệnh Apollo2 vào năm 1966
Schirra, Eisele và Cunningham lần đầu tiên được chỉ định trở thành phi hành đoàn Apollo vào ngày 29 tháng 9 năm 1966. Họ dự định sẽ thực hiện chuyến bay thử nghiệm thứ hai trên quỹ đạo Trái Đất của Mô-đun Chỉ huy Apollo (CM). Mặc dù rất vui mừng do được bổ nhiệm vào phi hành đoàn chính khi còn là một tân binh mà không phải phục vụ ở đội dự phòng, Cunningham vẫn lo lắng vì chuyến bay thử nghiệm thứ hai trên quỹ đạo Trái Đất, được đặt tên là Apollo 2, dường như sẽ không còn cần thiết nếu Apollo 1 thành công. Giám đốc Điều hành Phi hành đoàn Deke Slayton cũng là một phi hành gia trong nhóm Mercury Seven, nhưng đã phải ngừng bay vì lý do y tế và chuyển sang giám sát các nhà du hành vũ trụ. Cunningham về sau phát hiện ra rằng Slayton đã lên kế hoạch, với sự hỗ trợ của Schirra, sẽ chỉ huy sứ mệnh nếu ông có được giấy phép y tế; tuy vậy, điều này đã không xảy ra nên Schirra vẫn nắm quyền chỉ huy phi hành đoàn. Tháng 11 năm 1966, Apollo 2 bị hủy bỏ và phi hành đoàn của Schirra được bổ nhiệm làm dự phòng cho đội của Grissom. Thomas P. Stafford – chỉ huy dự phòng tại thời điểm đó của cuộc thử nghiệm thứ hai trên quỹ đạo – tuyên bố rằng nhiệm vụ bị hủy bỏ sau khi Schirra và phi hành đoàn gửi danh sách các yêu cầu lên ban quản lý NASA (Schirra muốn sứ mệnh bao gồm mô-đun Mặt Trăng cùng một CM có khả năng ghép nối với nó), và việc chỉ định làm dự phòng khiến Schirra phàn nàn Slayton và Chánh Văn phòng Phi hành gia Alan Shepard đã hủy hoại sự nghiệp của ông.
Ngày 27 tháng 1 năm 1967, phi hành đoàn của Grissom đang tiến hành thử nghiệm bệ phóng cho sứ mệnh dự kiến vào ngày 21 tháng 2 thì một đám cháy bùng phát trong cabin, cướp đi sinh mạng của cả ba phi hành gia. Tiếp nối là một cuộc đánh giá toàn diện về tính an toàn của chương trình Apollo. Không lâu sau vụ cháy, Slayton yêu cầu Schirra, Eisele và Cunningham thực hiện nhiệm vụ đầu tiên sau thời gian tạm dừng. Apollo 7 sẽ bay cùng tàu vũ trụ Block II được thiết kế cho các sứ mệnh Mặt Trăng, trái ngược với CSM Block I dùng trên Apollo 1, vốn chỉ nhằm mục đích sử dụng cho các sứ mệnh quay quanh quỹ đạo Trái Đất ban đầu do thiếu đi khả năng ghép nối với mô-đun Mặt Trăng. CM và bộ đồ vũ trụ của các phi hành gia được tái thiết kế toàn diện để giảm nguy cơ lặp lại vụ tai nạn đã cướp đi sinh mạng phi hành đoàn đầu tiên. Phi hành đoàn của Schirra sẽ thử nghiệm các hệ thống hỗ trợ sự sống, đẩy, hướng dẫn và điều khiển trong nhiệm vụ "kết thúc mở" này (có nghĩa là sứ mệnh sẽ được mở rộng mỗi khi vượt qua một bài kiểm tra). Thời lượng phi vụ bị giới hạn thành 11 ngày, giảm so với giới hạn 14 ngày ban đầu của Apollo 1.
Phi hành đoàn dự phòng bao gồm Chỉ huy Stafford, Phi công Mô-đun Chỉ huy John W. Young và Phi công Mô-đun Mặt Trăng Eugene A. Cernan. Về sau họ đã trở thành phi hành đoàn chính của Apollo 10. Ronald E. Evans, John L. 'Jack' Swigert và Edward G. Givens được chỉ định làm phi hành đoàn hỗ trợ cho sứ mệnh. Givens qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi vào ngày 6 tháng 6 năm 1967 nên William R. Pogue được bổ nhiệm làm người thay thế ông. Evans đã tham gia thử nghiệm phần cứng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy (KSC). Swigert là liên lạc viên khoang vũ trụ (capsule communicator, viết tắt là CAPCOM) cho phi vụ phóng và nghiên cứu các khía cạnh điều hành của sứ mệnh. Pogue thì dành thời gian sửa đổi những thủ tục. Đội hỗ trợ cũng thay thế khi đội chính và đội dự phòng không thể có mặt.
CAPCOM, nhân sự thuộc Trung tâm Kiểm soát Sứ mệnh chịu trách nhiệm liên lạc với tàu vũ trụ (khi ấy luôn là một phi hành gia), gồm có Evans, Pogue, Stafford, Swigert, Young và Cernan. Các giám đốc chuyến bay là Glynn Lunney, Gene Kranz và Gerry Griffin.
Chuẩn bị
Theo Cunningham, Schirra ban đầu không mấy quan tâm đến chuyến bay vũ trụ thứ ba nên đã bắt đầu tập trung vào sự nghiệp hậu NASA của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện sứ mệnh đầu tiên sau thảm họa đã thay đổi mọi thứ: "Người ta nói Wally là người được chọn để giải cứu chương trình không gian có người lái. Và đó là một nhiệm vụ đáng để Wally quan tâm". Eisele lưu ý rằng, việc Apollo 7 sẽ thành công hay thất bại đóng vai trò rất lớn quyết định đến số phận toàn bộ chương trình không gian có phi hành đoàn.
Do hoàn cảnh vụ tai nạn, lúc đầu phi hành đoàn không mấy tin tưởng vào nhân viên nhà máy North American Aviation ở Downey, California, những người đã chế tạo các mô-đun chỉ huy Apollo, và họ quyết tâm theo dõi từng bước quá trình xây dựng và thử nghiệm phi thuyền. Mặc dù việc giám sát gây cản trở đối với công tác đào tạo, các thiết bị mô phỏng của CM vẫn chưa sẵn sàng và họ biết rằng sẽ còn rất lâu nữa mới đến ngày phóng. Phi hành đoàn đã dành ra nhiều quãng thời gian dài ở Downey. Các thiết bị mô phỏng được xây dựng tại Trung tâm Tàu vũ trụ có Người lái ở Houston và tại KSC ở Florida. Khi chúng đã sẵn sàng sử dụng, phi hành đoàn lại gặp khó khăn trong việc tìm đủ thời gian để thực hiện mọi công việc, ngay cả khi có sự trợ giúp của các đội dự phòng và hỗ trợ; phi hành đoàn thường làm việc 12 hoặc 14 tiếng mỗi ngày. Sau khi CM hoàn thành và được đưa đến KSC, trọng tâm đào tạo của phi hành đoàn chuyển sang Florida nhưng họ vẫn phải đến Houston để lập kế hoạch và họp kỹ thuật. Thay vì trở về nhà ở Houston vào cuối tuần, họ thường ở lại KSC để tham gia huấn luyện hoặc thử nghiệm tàu vũ trụ. Theo cựu phi hành gia Tom Jones trong một bài báo năm 2018, Schirra, "với bằng chứng không thể chối cãi về những rủi ro mà phi hành đoàn của ông sẽ gặp phải, giờ đây đã có đòn bẩy to lớn với ban quản lý tại NASA và North American, và ông đã sử dụng nó. Trong phòng họp hoặc trên dây chuyền lắp ráp tàu vũ trụ, Schirra luôn làm theo cách của mình".) bay vòng quanh Mặt Trăng, phần nào báo trước cho một sứ mệnh có phi hành đoàn bay vòng quanh vệ tinh tự nhiên của Trái Đất. Vào lúc đó, Mô-đun Mặt Trăng (LM) của NASA đang gặp chậm trễ và Quản lý Tàu vũ trụ của Chương trình Apollo (Apollo Program Spacecraft Manager), George Low, đề xuất rằng nếu Apollo 7 thành công thì Apollo 8 sẽ đi vào quỹ đạo Mặt Trăng mà không cần LM. Việc chấp nhận lời yêu cầu của Low đã nâng cao ngân sách dành cho Apollo 7. Tuy nhiên, nhà thầu tàu vũ trụ đã thay đổi từ McDonnell (Mercury và Gemini) sang North American (Apollo), vì vậy Wendt không được làm chỉ huy bệ phóng cho Apollo 1. Schirra kiên quyết muốn có Wendt trở lại chỉ huy bệ phóng cho chuyến bay Apollo của mình, đến nỗi ông đã nhờ sếp Slayton thuyết phục ban quản lý North American thuê Wendt khỏi McDonnell, và đích thân Schirra cũng vận động người quản lý hoạt động phóng của North American thay đổi ca làm việc của Wendt từ nửa đêm sang ban ngày để ông có thể làm chỉ huy bệ phóng cho Apollo 7. Wendt cuối cùng vẫn lãnh đạo bệ phóng trong toàn bộ chương trình Apollo.
Phần cứng
Tàu vũ trụ
thumb|right|CSM-101 trước ngày phóng
Tàu vũ trụ Apollo 7 bao gồm Mô-đun Chỉ huy và Dịch vụ 101 (CSM-101), CSM Block II đầu tiên được bay. Tàu Block II có khả năng ghép nối với LM, mặc dù không có chiếc nào bay trên Apollo 7. Phi thuyền cũng bao gồm hệ thống thoát hiểm khi phóng (launch escape system) và adapter tàu vũ trụ-mô-đun Mặt Trăng (spacecraft-lunar module adapter, viết tắt là SLA, được đánh số là SLA-5). Tuy vậy, SLA lại không có LM mà thay vào đó cung cấp cấu trúc lắp ghép giữa mô-đun chỉ huy (SM) và Instrument Unit của S-IVB, với LM được thay thế bằng một vật củng cố kết cấu (structural stiffener). Hệ thống thoát hiểm khi phóng bị loại bỏ sau khi đánh lửa S-IVB, còn SLA thì ở lại trên chiếc S-IVB đã qua sử dụng khi CSM tách khỏi nó trên quỹ đạo.
Sau vụ hỏa hoạn Apollo 1, CSM Block II được thiết kế lại toàn diện – 1.300 trên tổng số 1.800 đề xuất thay đổi đã được triển khai cho Apollo 7. Tên lửa này có định danh SA-205, và là chiếc Saturn IB thứ năm được bay – những chiếc trước đó không chở theo phi hành đoàn vào vũ trụ. Khác với các phiên bản tiền nhiệm, nó được lắp đặt đường dẫn nhiên liệu mạnh hơn cho bộ đánh lửa tăng cường trong những động cơ J-2, mục đích là để ngăn chặn việc lặp lại tình trạng ngừng hoạt động sớm như xảy ra trên chuyến bay không người lái Apollo 6; phân tích sau chuyến bay chỉ ra rằng đường dẫn nhiên liệu tới các động cơ J-2, cũng được sử dụng trong chiếc Saturn V được thử nghiệm trên Apollo 6, đã bị rò rỉ.
Saturn IB là tên lửa hai tầng, với tầng thứ hai là S-IVB tương tự như tầng thứ ba của Saturn V, chiếc được dùng trong tất cả các sứ mệnh Apollo sau này.
Apollo 7 là sứ mệnh Apollo có người lái duy nhất được phóng từ Tổ hợp Phóng 34 của Trạm không quân Mũi Kennedy. Tất cả các chuyến bay tiếp theo của tàu vũ trụ Apollo và Skylab (bao gồm cả Apollo-Soyuz) đều được phóng từ Tổ hợp Phóng 39 tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy gần đó.
Trong thời gian đếm ngược, gió đang thổi vào từ phía đông. Việc phóng trong điều kiện thời tiết này là vi phạm các quy tắc an toàn, vì trong trường hợp phương tiện gặp trục trặc và sứ mệnh bị hủy bỏ, CM có thể bị thổi bay trở lại đất liền thay vì hạ cánh trên mặt nước như thường lệ. Apollo 7 được trang bị những chiếc ghế dài dành cho phi hành đoàn kiểu Apollo 1 cũ, có khả năng bảo vệ kém hơn những chiếc sau này. Schirra sau đó kể lại rằng ông cảm thấy lẽ ra phải hủy bỏ việc phóng tàu, nhưng các nhà quản lý đã khước từ quy định này và ông buộc phải nhượng bộ trước áp lực.
Quá trình cất cánh diễn ra hoàn hảo; Saturn IB hoạt động tốt trong lần phóng có người lái đầu tiên và không gặp bất thường đáng kể nào ở giai đoạn tăng tốc. Các phi hành gia mô tả rằng quá trình này rất mượt mà. Chuyến bay đã giúp Schirra, 45 tuổi, trở thành người lớn tuổi nhất đi lên vũ trụ vào thời điểm đó, Schirra đã mang theo cà phê hòa tan bất chấp sự phản đối của các bác sĩ tại NASA, những người cho rằng nó không bổ sung thêm bất kỳ chất dinh dưỡng nào. Năm giờ sau khi phóng, ông cho biết đã uống và thưởng thức chiếc túi nhựa chứa đầy cà phê đầu tiên của mình.
Mục đích cuộc hẹn là để chứng minh khả năng khớp quỹ đạo (match orbits) và giải cứu LM của CSM trong trường hợp nỗ lực hạ cánh xuống Mặt Trăng bị hủy bỏ, hoặc sau khi cất cánh từ bề mặt thiên thể này. Theo kế hoạch, cuộc hẹn sẽ diễn ra vào ngày thứ hai; nhưng vào cuối ngày đầu tiên, Schirra thông báo rằng mình đã bị cảm lạnh. Mặc cho sự thuyết phục của Slayton, ông vẫn từ chối đề nghị của Trung tâm Kiểm soát Sứ mệnh yêu cầu phi hành đoàn bật nguồn và kiểm tra camera truyền hình trên tàu trước cuộc hẹn với lý do trời lạnh, phi hành đoàn chưa ăn gì và đã có một lịch trình rất dày đặc. Đây là buổi truyền hình trực tiếp đầu tiên được phát sóng từ tàu vũ trụ của Mỹ Theo Jones, các phi hành gia này đã giúp mang đến cho NASA những mối quan hệ vững chắc với công chúng.
thumb|right|Cunningham trong sứ mệnhSau đó vào ngày 14 tháng 10, máy thu radar trên tàu đã có thể khóa vào máy phát trên mặt đất, một lần nữa cho thấy CSM trên quỹ đạo Mặt Trăng có thể giữ liên lạc với một chiếc LM đang quay trở lại từ bề mặt thiên thể này. Johnson còn mời phi hành đoàn đến Nhà Trắng và họ đã đến đó vào tháng 12 năm 1968. John T. McQuiston viết trên tờ The New York Times sau cái chết của Eisele vào năm 1987 rằng thành công của Apollo 7 đã mang lại niềm tin mới cho chương trình không gian của NASA. việc nghỉ hưu của ông ở NASA và Hải quân sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1969. Hai thành viên phi hành đoàn còn lại đã bị cản trở sự nghiệp du hành vũ trụ do tham gia vào Apollo 7; theo một số người, Kraft từng nói với Slayton rằng mình không sẵn lòng làm việc với bất kỳ thành viên phi hành đoàn nào trong tương lai. Cunningham nghe đồn về câu nói đó của Kraft và đến đối chất với ông vào đầu năm 1969; Kraft phủ nhận việc đưa ra tuyên bố "nhưng phản ứng của ông ta không giống với một người vô tội bị xúc phạm". Sự nghiệp của Eisele có khả năng cũng bị ảnh hưởng do trở thành phi hành gia đầu tiên ly hôn lúc còn đang hoạt động, sau đó là một cuộc tái hôn nhanh chóng và màn thể hiện thờ ơ với tư cách Phi công Mô-đun Chỉ huy dự phòng cho Apollo 10. Eisele từ chức tại Văn phòng Phi hành gia vào năm 1970, mặc dù ông vẫn làm việc cho NASA tại Trung tâm Nghiên cứu Langley ở Virginia cho đến năm 1972, khi đã đủ điều kiện nghỉ hưu. Cunningham được bổ nhiệm làm lãnh đạo bộ phận Skylab của Văn phòng Phi hành gia. Ông kể rằng mình từng được đề nghị một cách không chính thức để chỉ huy phi hành đoàn Skylab đầu tiên, nhưng khi quyền này thuộc về chỉ huy Apollo 12 Pete Conrad và Cunningham được đề nghị giữ vị trí chỉ huy dự phòng, ông đã từ chức phi hành gia vào năm 1971.
Schirra, Eisele và Cunningham là phi hành đoàn duy nhất trong tất cả các nhiệm vụ Apollo, Skylab và Apollo-Soyuz chưa được trao Huân chương Thành tích Xuất sắc ngay sau nhiệm vụ của họ (mặc dù Schirra đã nhận được huân chương này hai lần trước đó cho các nhiệm vụ Mercury và Gemini). Do vậy, Trưởng quản lý NASA Michael D. Griffin quyết định trao huân chương cho phi hành đoàn một cách muộn màng vào tháng 10 năm 2008, "[v]ì thành tích mẫu mực trong việc đáp ứng tất cả các mục tiêu của Apollo 7 và hơn thế nữa trong sứ mệnh Apollo đầu tiên có phi hành đoàn, mở đường cho chuyến bay đầu tiên lên Mặt Trăng trên Apollo 8 và cú hạ cánh đầu tiên xuống Mặt Trăng có phi hành đoàn trên Apollo 11". Vào thời điểm đó, chỉ có Cunningham là còn sống vì Eisele đã qua đời năm 1987 và Schirra năm 2007. Miếng vá được thiết kế bởi nhân viên Allen Stevens của Rockwell International.
Vị trí phi thuyền
Tháng 1 năm 1969, mô-đun chỉ huy Apollo 7 được mang ra trưng bày trên chiếc phao của NASA trong lễ diễu hành nhậm chức của Tổng thống Richard M. Nixon. Các phi hành gia Apollo 7 thì ngồi trên một chiếc ô tô mui trần. Sau khi chuyển đến Viện Smithsonian vào năm 1970, Bảo tàng Khoa học và Công nghệ Quốc gia Canada ở Ottawa, Ontario đã mượn lại tàu vũ trụ. Nó được trả về cho Hoa Kỳ vào năm 2004. Hiện tại, CM Apollo 7 đang được cho mượn tại Bảo tàng Frontiers of Flight ở sân bay Dallas Love Field thuộc Dallas, Texas.
Mô tả trên phương tiện truyền thông
thumb|[[Barbara Eden, Bob Hope, Eisele, Cunningham, Schirra và "tiếng nói của Trung tâm Kiểm soát Sứ mệnh" Paul Haney trên chương trình The Bob Hope Show.]]
Vào ngày 6 tháng 11 năm 1968, diễn viên hài Bob Hope đã phát sóng chương trình truyền hình tạp kỹ đặc biệt của ông từ Trung tâm Tàu vũ trụ có Người lái của NASA ở Houston để tôn vinh phi hành đoàn Apollo 7. Barbara Eden, ngôi sao của loạt hài kịch tình huống I Dream of Jeannie, trong đó có những phi hành gia hư cấu giữa các nhân vật định kỳ của series, đã xuất hiện cùng với Schirra, Eisele và Cunningham.
Schirra đã vượt qua cơn cảm lạnh mà mình mắc phải trên Apollo 7 bằng bản hợp đồng quảng cáo truyền hình với tư cách là người phát ngôn của Actifed, một phiên bản thuốc không kê đơn mà ông từng sử dụng trong không gian.
Sứ mệnh Apollo 7 về sau được kịch tính hóa trong loạt phim truyền hình năm 1998 From the Earth to the Moon tập "We Have Cleared the Tower", với Mark Harmon vai Schirra, John Mese vai Eisele, Fredric Lehne vai Cunningham và Nick Searcy vai Slayton.