✨Chim cưu

Chim cưu

Chim cưu hay chim dodo (tên khoa học: Raphus cucullatus) hay là một loài chim không biết bay đặc hữu của đảo Mauritius (Mô-ri-xơ) ở phía đông Madagascar, Ấn Độ Dương. Dodo cùng với họ hàng gần nhất của chúng là loài Pezophaps solitaria tạo nên phân họ Raphinae của họ Columbidae (bồ câu) và cả hai đều đã tuyệt chủng. Loài có quan hệ gần nhất với dodo còn tồn tại là bồ câu Nicobar. Con người đã từng nghĩ rằng dodo trắng có mặt trên hòn đảo Réunion gần đó, vấn đề này hiện là không rõ ràng liên quan tới loài Threskiornis solitarius (cò quăm Réunion) và những bức họa về dodo trắng.

Các vết tích bán hóa thạch còn lại chỉ ra dodo cao tầm 1 m (3 ft 3 in) và cân nặng có thể từ 10,6 đến 21,1 kg (23 – 47 lb). Con người chỉ biết tới diện mạo thực của dodo qua tranh vẽ và những mô tả trên giấy ở thế kỷ 17. Tuy nhiên, dáng vẻ chính xác ngoài đời của chúng vẫn còn là vấn đề nhập nhằng bởi những mô tả là thiếu đồng nhất và chỉ có một số ít trong đó là vẽ từ mẫu vật sống. Tương tự, con người không biết nhiều điều chắc chắn về môi trường sống và hành vi của dodo. Chúng được mô tả là có bộ lông màu xám-hơi nâu với một túm lông ở đuôi, chân màu vàng, đầu xám, trụi, mỏ xanh, vàng, đen. Chúng sử dụng gastrolith (những viên đá trong mề, hay dạ dày) để giúp tiêu hóa thức ăn mà thành phần được cho là có trái cây. Môi trường sống chủ yếu của dodo được tin là rừng ở vùng ven biển Mauritius. Một nguồn tin cho rằng chúng chỉ đẻ một trứng. Việc dodo trở nên không biết bay được cho là do nguồn thức ăn dồi dào sẵn có và sự thiếu vắng tương đối động vật săn mồi trên đảo Mauritius.

Lần đầu dodo được đề cập đến là vào năm 1598 bởi những thủy thủ Hà Lan. Trong những năm tiếp theo, loài chim này đã bị con người và các loài xâm lấn săn bắt trong lúc mà môi trường sống của chúng đang dần bị hủy hoại. Năm cuối cùng con người còn trông thấy dodo được phần đông đồng tình là 1662. Sự tuyệt chủng của loài này không được chú ý đến ngay và một số người đã cho rằng chúng là một sinh vật tưởng tượng. Vào thế kỷ 19, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu một phần nhỏ những gì còn lại của bốn mẫu vật được đem đến châu Âu hồi đầu thế kỷ 17, trong đó có một cái đầu và chân. Kể từ đó, một số lượng lớn những vật liệu bán hóa thạch đã được thu thập ở Mauritius, đa phần là từ đầm lầy Mare aux Songes. Việc dodo tuyệt chủng trong vòng chưa đầy một thế kỷ tính từ thời điểm phát hiện ra chúng đã làm dấy lên sự chú ý về một vấn đề mà trước đó không được thừa nhận, đó là sự dính dáng của con người tới việc các loài sinh vật biến mất toàn bộ. Qua cuốn tiếu thuyết Alice's Adventures in Wonderland (Cuộc phiêu lưu của Alice vào xứ sở thần tiên), dodo đã được công nhận và biết đến rộng rãi. Từ đó hình ảnh của chúng đã dần trở nên cố định trong văn hóa đại chúng, thường là biểu tượng của sự tuyệt chủng và lỗi thời. Dodo hay được xem như linh vật ở Mauritius.

Sinh cảnh và phân bổ

Sinh cảnh ưa thích của dodo là điều chưa được biết tới, tuy nhiên những mô tả xưa gợi ý chúng cư ngụ trong những cánh rừng ở vùng ven biển phía tây và nam Mauritius. Quan điểm này được ủng hộ bởi thực tế đầm lầy Mare aux Songes nằm ở vùng tây nam Mauritius, gần biển. Sự phân bổ hạn chế như vậy có thể dễ góp phần khiến dodo tuyệt chủng. Tấm bản đồ từ tập san Gelderland năm 1601 đã chỉ ra một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mauritius, nơi dodo bị săn bắt. Julian Hume đề xuất rằng hòn đảo đó nằm trong vịnh Tamarin, phía tây Mauritius. Những chiếc xương bán hóa thạch cũng đã được tìm thấy trong các hang động ở vùng cao, dấu hiệu cho thấy dodo từng có mặt ở đó. Công tác nghiên cứu tại đầm lầy Mare aux Songes chỉ ra sinh cảnh của dodo chủ yếu gồm Sideroxylon grandiflorum, Pandanus và các loài cọ đặc hữu. Vị trí gần biển và đặc tính ẩm ướt của đầm lầy Mare aux Songes đã tạo nên tính đa dạng cao của các loài thực vật, trong khi vùng xung quanh là khô hạn hơn.

Một số lữ khách ban đầu cho rằng thịt dodo là khó nuốt và họ ưa thịt vẹt hoặc chim bồ câu hơn; số khác thì mô tả thịt chúng dai nhưng được. Có những người săn dodo chỉ để lấy mề bởi đó được xem là phần ngon nhất. Săn dodo không khó tuy nhiên thợ săn cần tránh những đòn tấn công từ cái mỏ uy lực của chúng.

Sự xuất hiện của dodo và gà nước đỏ đã khiến Peter Mundy phải suy ngẫm về việc tại sao chúng, những loài không thể bay hoặc bơi, lại có và chỉ có ở một hòn đảo cô lập, tại thời điểm 230 năm trước ngày thuyết tiến hóa của Charles Darwin ra đời.

Tuyệt chủng

thumb|left|alt=Forest filled with animals, including a dark dodo in the lower right|Trong bức họa The Paradise của Savery năm 1626 có hình ảnh một con dodo ở góc dưới bên phải Cũng như nhiều loài động vật tiến hóa trong tình cảnh cách ly với thú săn mồi khác, dodo hoàn toàn không sợ con người. Điều này cùng đặc điểm không thể bay khiến chúng dễ dàng trở thành mồi cho các thủy thủ. Mặc dù một vài thông tin lẻ tẻ diễn tả việc tàn sát dodo để làm thực phẩm dự trữ cho tàu thuyền, các cuộc điều tra khảo cổ học tìm thấy ít chứng cứ chỉ ra con người ăn thịt dodo. Những chiếc xương của ít nhất hai con dodo đã được phát hiện trong các hang động ở Baie du Cap, chỗ trú ẩn của những nô lệ bỏ trốn và bị kết án trong thế kỷ 17. Vì đây là những nơi địa hình cao, ghập ghềnh, sẽ không dễ để dodo có thể đến được đó. Ở thế kỷ 17, số dân trên đảo Mauritius (diện tích 1.860 km² hay 720 dặm²) luôn không quá 50 người, tuy nhiên họ lại mang tới những loại động vật khác như chó, lợn, mèo, chuột và khỉ đuôi dài, chúng cướp tổ dodo và tranh giành nguồn thức ăn có giới hạn. Cùng thời gian đó, con người đã phá hủy sinh cảnh rừng của dodo. Sự tác động của các loài động vật ngoại lai, đặc biệt là lợn và khỉ, đến số lượng dodo, ngày nay được xem là nghiêm trọng hơn sự săn bắt của con người. Chuột có lẽ không phải là mối đe dọa lớn đến những chiếc tổ bởi dodo đã từng ứng phó vấn đề tương tự đến từ những con cua cạn bản địa.

Tồn tại ý kiến cho rằng dodo có thể đã trở nên hiếm sẵn hoặc khu biệt hóa trước lúc con người tới Mauritius, bởi có vẻ như sự tuyệt chủng sẽ không xảy đến quá nhanh nếu chúng có mặt ở mọi vùng hẻo lánh trên hòn đảo. Cuộc thám hiểm năm 2005 đã phát hiện những vết tích bán hóa thạch của dodo và các loài động vật khác bỏ mạng bởi một trận lũ quét. Các đợt chết hàng loạt như vậy sẽ càng đẩy một loài đang có nguy cơ tuyệt chủng vào tình cảnh khốn cùng. Tuy nhiên thực tế dodo đã sống sót hàng trăm năm qua những lần núi lửa hoạt động và biến đổi khí hậu cho thấy loài chim này thích ứng tốt trong lòng hệ sinh thái của chúng. thumb|alt=Painting of a dodo|Ảnh phục chế của [[Frederick William Frohawk dựa theo cuốn Extinct Birds của Walter Rothschild năm 1907]] Về thời điểm tuyệt chủng của dodo có một vài tranh cãi. Lần cuối cùng con người còn nhìn thấy dodo được phần đông đồng tình là vào năm 1662, đó là thủy thủ Volkert Evertsz trên con tàu Hà Lan Arnhem bị đắm. Evertsz thuật lại hoạt động săn bắt loài chim này trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mauritius mà nay được gợi ý là đảo Amber:

thumb|left|alt=Drawing of a dodo, a one horned sheep and a red rail|Một con dodo, một con cừu một sừng và một con gà nước đỏ. Tranh vẽ của [[Pieter van den Broecke, 1617]] Có thể những con dodo trên đảo Amber không phải là những thành viên cuối cùng của loài này. Lần khẳng định trông thấy dodo cuối cùng được ghi lại trong sổ sách săn bắn của Isaac Johannes Lamotius năm 1688. Roberts và Solow đã phân tích tài liệu này và đưa ra thời điểm tuyệt chủng ước tính mới là năm 1693 với khoảng tin cậy 95% là giai đoạn 1688–1715. Các tác giả còn chỉ ra rằng vì lần nhìn thấy cuối cùng trước năm 1662 là năm 1638 nên gần như chắc chắn đến thập niên 1660, dodo đã rất hiếm, và như vậy thông tin gây tranh cãi từ một nô lệ đào thoát năm 1674 là không thể bị loại bỏ.

Anthony Cheke đã nêu rằng một số mô tả sau năm 1662 sử dụng các tên "Dodo" và "Dodaers" khi nói đến gà nước đỏ, bởi vậy ông cho rằng năm 1662 là lần quan sát đáng tin cậy cuối cùng. Vào năm 1668 lữ khách người Anh John Marshall, người sử dụng tên gọi "Dodo" và "Red Hen" (gà mái đỏ) để chỉ gà nước đỏ, đã diễn tả thịt (có thể là của dodo hoặc gà nước đỏ) là khó xơi, mô tả này lặp lại vào năm 1681. Errol Fuller đã đặt nghi vấn ngay cả về lần mô tả năm 1662. Trước khi có ý kiến của Cheke, 1681 được cho là năm cuối cùng xuất hiện những thông tin về dodo và vẫn có những người ủng hộ thời điểm đó. Vấn đề thời gian tuyệt chủng của dodo dường như sẽ không bao giờ có lời giải trừ khi những tường thuật cuối cùng về tên gọi đi kèm với mô tả đặc điểm được tái phát hiện. Sách đỏ IUCN đồng tình với lý luận của Cheke và chọn năm 1662, gán cho mọi thông tin sau đó là nói đến gà nước đỏ. Dù bất kể thế nào, dodo gần như chắc chắn tuyệt chủng trước năm 1700, khoảng một thế kỷ sau khi bị con người phát hiện. Vào năm 1710 người Hà Lan rời Mauritius, nhưng đến lúc đó thì dodo cũng như đa phần các loài động vật có xương sống trên cạn lớn đều đã tuyệt chủng.

Mặc dù việc dodo trở nên hiếm thấy đã được thông báo ở thế kỷ 17, sự tuyệt chủng của chúng không được thừa nhận cho đến thế kỷ 19. Điều này một phần là bởi những lý do về tôn giáo, người ta đã không tin chúng tuyệt chủng trước khi điều này được Georges Cuvier chứng minh, và một phần là bởi nhiều nhà khoa học đã nghi ngờ rằng liệu dodo có từng tồn tại. Chúng có vẻ quá xa lạ như một sinh vật và nhiều người đã tin dodo chỉ là một thứ tưởng tượng. Loài chim này được sử dụng làm ví dụ về sự tuyệt chủng do con người gây ra lần đầu trong Tạp chí Penny vào năm 1833.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chim cưu** hay chim **dodo** (tên khoa học: _Raphus cucullatus_) hay là một loài chim không biết bay đặc hữu của đảo Mauritius (Mô-ri-xơ) ở phía đông Madagascar, Ấn Độ Dương. Dodo cùng với họ
**_Đào cưu đồ_** (, nghĩa là "tranh vẽ chim cưu trên cành đào"), hay còn được biết đến trong tiếng Nhật dưới tên gọi là một bức tranh lụa thiết sắc của Tống Huy Tông.
phải|thumb|Vườn quốc gia Tràm Chim - một sân chim lớn bậc nhất đồng bằng sông Cửu Long. **Sân chim** hay **vườn chim**, **mảng chim**, **vườn cò**, là địa điểm quy tụ thường xuyên các loài
thumb|phải|[[Gà lôi hông tía là quốc điểu của Thái Lan.]] **Các loài chim ở Thái Lan** bao gồm 1095 loài tính đến năm 2021. Trong số đó, 7 loài đã được con người du nhập
**Họ Chim nhiệt đới** (danh pháp khoa học: **_Phaethontidae_**) là một họ chim biển sinh sống ở vùng nhiệt đới. Họ này chỉ chứa 3 loài còn sinh tồn. Hiện tại, chúng được đặt trong
**Tàu Hải Thành 26-BLC** là một tàu vận tải biển, có trọng tải trên 3 nghìn tấn, thuộc Công ty tránh nhiệm hữu hạn thương mại vận tải biển Phương Thịnh. Vào khoảng 23h55 phút
**Chim cánh cụt** hay còn gọi là **chim cụt cánh** (bộ **Sphenisciformes**, họ **Spheniscidae** - lấy theo chi _Spheniscus_ nghĩa là _hình nêm_) là một nhóm chim nước không bay được. Chúng hầu như chỉ
**Chim cút**, còn gọi là **chim cay**, là một tên gọi chung cho một số chi chim có kích thước trung bình trong họ Trĩ (_Phasianidae_), hoặc trong họ Odontophoridae (chim cút Tân thế giới)
**Đeo vòng cho chim** là đeo một thẻ kim loại hoặc nhựa nhỏ được đánh số riêng lẻ vào chân hoặc cánh của một con chim hoang dã để cho phép nhận diện cá thể
**Chim** hay **điểu**, **cầm** (theo phiên âm Hán Việt) (danh pháp khoa học: **Aves**) là tập hợp các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng,
phải|nhỏ|[[Đại bàng vàng]] nhỏ|[[Gyps fulvus|Kền kền ưng]] **Chim săn mồi** là các loài chim có lối sống ăn thịt bằng cách đi săn, chủ yếu là săn các động vật có xương sống, bao gồm
nhỏ|phải|[[Đại bàng loài chim biểu tượng cho quyền lực và chúa tể bầu trời là đối tượng nuôi chim của nhiều người muốn thể hiện đẳng cấp]] **Nuôi chim săn** hay **thú chơi chim săn**
**Chim hoét rừng Himalaya** (Danh pháp khoa học: _Zoothera salimalii_) là một loài chim mới được mô tả trong năm 2016, loài chim hoét mới có tên khoa học này là để tưởng nhớ đến
**Chim cánh cụt mắt vàng** (_Megadyptes antipodes_) hay **_hoiho_** là một loài chim cánh cụt bản địa New Zealand. Trước đây được cho là có quan hệ gần với chim cánh cụt nhỏ (_Eudyptula minor_),
**Chim cút Cựu thế giới** là tên gọi chỉ chung cho một số chi của các loài chim cút cỡ trung bình trong họ chim trĩ Phasianidae. Chúng hiện nay được tìm thấy trong các
**_Heteralocha acutirostris_** là một loài chim trong họ Callaeidae. Đây là loài Callaeidae lớn nhất đặc hữu của Đảo Bắc của New Zealand. Việc tuyệt chủng của nó trong đầu thế kỷ 20 có hai
nhỏ|300x300px|Một bầy [[Branta leucopsis|ngỗng hàu trong đợt di cư mùa thu.]] nhỏ|300x300px|Ví dụ về những chuyến di cư đường dài của chim. **Chim di trú** hay còn gọi là ** chim di cư **hay **sự
thumb|Một nhóm xem chim với ống nhòm và kính viễn vọng **Ngắm chim** hay **xem chim**, là một hình thức quan sát động vật hoang dã chủ yếu qua quan sát chim tại môi trường
**Chim cánh cụt Waitaha** (_Megadyptes waitaha_) là một loài chim cánh cụt tuyệt chủng của New Zealand, phát hiện năn 2008. Loài này được những nhà khoa học Đại học Otago và Đại học Adelaide
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
nhỏ|phải|Một con cừu đực Manx Loaghtan hai sừng nhỏ|phải|Một con cừu Manx Loaghtan trên nông trại cổ xưa **Cừu Manx Loaghtan** là một giống cừu (Ovis aries) có nguồn gốc từ đảo Isle of Man.
**Bộ Chim nhiệt đới** (danh pháp khoa học: **Phaethontiformes**) là một bộ chim. Bộ này chứa một họ còn tồn tại, Họ Chim nhiệt đới (Phaethontidae), và họ Prophaethontidae đã tuyệt chủng từ đầu Kainozoi.
**Giải ghiên cứu Loye và Alden Miller** (tiếng Anh: _Loye and Alden Miller Research Award_) là một giải thưởng của Hội nghiên cứu chim Cooper (_Cooper Ornithological Society_) lập năm 1993 để nhìn nhận các
**Hiệp sĩ Cứu tế** hay **Y viện Hiệp sĩ Đoàn** hay **Hiệp sĩ Y viện** (còn được gọi là _Giáo binh đoàn Tối cao của Thánh John của Jerusalem của Rhodes và của Malta, Hiệp
**Họ Chim ruồi** (**Trochilidae**), còn được gọi là **họ Chim ong** là một họ chim mà các loài có kích thước nhỏ nhất trong tất cả các loài chim, khi bay và giữ nguyên một
nhỏ|phải|Một con chim cánh cụt, chúng là loài điển hình cho chim không bay **Chim không bay** là những con chim thông qua quá trình tiến hóa đã mất khả năng bay. Có hơn 60
**Chim Toucan Swainson** hay còn gọi là **Chim Toucan mỏ đục** (Danh pháp khoa học: _Ramphastos ambiguus swainsonii_) là một phân loài của loài chim Toucan hàm đen (Ramphastos ambiguus). Tên khoa học tiếng Anh
nhỏ|phải|Bảo tồn loài hải âu biển [[Thalassarche melanophrys]] nhỏ|phải|Sự tuyệt chủng của loài chim sẻ Dusky ([[Ammodramus maritimus nigrescens) bên bờ biển là do mất môi trường sống.]] **Bảo tồn loài chim** (_Bird conservation_) là
Ở Việt Nam, theo phân tích của tổ chức BirdLife quốc tế năm 1998 đã xác định có ba vùng chim đặc hữu (EBA): Vùng đất thấp Trung Bộ, Cao nguyên Đà Lạt và Vùng
**Chim ruồi đuôi kéo mỏ đỏ** (tên khoa học **_Trochilus polytmus_**) là một loài chim trong họ Chim ruồi, là loài bản địa ở Jamaica, nơi nó là loài phong phú và phổ biến nhất
**Họ Chim mào bắt rắn** (**Cariamidae**) là một họ chim nhỏ và cổ xưa, sinh sống tại khu vực nhiệt đới Nam Mỹ. Từng có thời chúng được coi là có quan hệ họ hàng
**Chim lam** hay **Chim lam châu Á**, tên khoa học **_Irena puella_**, là một loài chim thuộc họ Chim lam (_Irenidae_). Loài chim này được tìm thấy trong các khu rừng trên khắp Nam Á
nhỏ|_Eudyptes chrysolophus_ **Chim cánh cụt Macaroni** (danh pháp khoa học: _Eudyptes chrysolophus_) là một loài chim cánh cụt. Loài này cư trú ở cận Nam Cực đến bán đảo Nam Cực. Một trong sáu loài
**Cứu Thế Quân** (_Salvation Army_), hoặc **Đạo quân Cứu thế**, là một hệ phái Tin Lành (_Evangelical_) thuộc cộng đồng Kháng Cách (_Protestant_), cũng là một tổ chức xã hội với các hoạt động từ
**Cừu** vốn được biết đến nhiều ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là văn hóa phương Tây nơi những con cừu trở thành loại gia súc phổ biến nhất của ngành chăn nuôi.
**Nguyễn Đức Bình** (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1996 tại Tân Lập, Đan Phượng, Hà Nội), được biết đến với biệt danh **Chim Sẻ Đi Nắng**, là một người chơi trò chơi Age of
**Grecia** (nở khoảng tháng 3 năm 2014) là một con chim Toucan nhỏ nổi tiếng vì nó là con chim Toucan đầu tiên được ghép cho một chiếc mỏ giả bằng công nghệ in 3D.
**Cứu kéo** là toàn bộ các biện pháp tổ chức và kỹ thuật nhằm đưa vũ khí, trang bị kỹ thuật hỏng hoặc gặp sự cố (kẹt, sa lầy, sa hố, chìm, rệ, đổ...) ra
nhỏ|phải|Một con cừu Na Uy **Cừu Spælsau** hay còn gọi là **cừu Na Uy** là một giống cừu nhà có nguồn gốc từ Na Uy. Nhiều người coi Spælsau là đàn giống gốc của cừu
**Phân bộ Cá chim bạc** (tên khoa học: _Stromateoidei_) là một phân bộ trong bộ Cá vược (Perciformes) truyền thống – bộ cá có số lượng loài lớn nhất. ## Phân loại Theo phân loại
**Phân bộ Chim cận biết hót**, danh pháp khoa học: **Tyranni**, là một phân bộ gồm các loài chim thuộc bộ Sẻ (Passeriformes). Phân bộ gồm hơn 1.000 loài, phần lớn phân bố ở Nam
Nhận dạng vật thể bay không xác định là một nhiệm vụ khó khăn do chất lượng kém mức thông thường của các bằng chứng được cung cấp bởi những người báo cáo nhìn thấy
**Bồn trũng Cửu Long** hay **Bể Cửu Long** hoặc **Bể trầm tích Cửu Long** là một bồn trầm tích được lấp đầy bởi các vật liệu trầm tích Kainozoi với bề dày trầm tích tại
**_Linaria_** là một chi chim sẻ nhỏ trong họ Sẻ thông (Fringillidae). Tên gọi của chi _linaria_ là từ trong tiếng Latin để chỉ thợ dệt vải lanh, từ _linum_ nghĩa là "cây lanh". Các
**_Apus_** là một chi bao gồm một số thành viên cựu Thế giới của phân họ Apodinae, họ Yến (Apodidae). Chúng là một trong số những loài chim nhanh nhất thế giới. Chúng dành phần
**_Ceyx_** là một chi Cựu Thế giới của họ Alcedinidae. Các loài của chi này được phát hiện từ Đông Nam Á tới Quần đảo Solomon. ## Danh sách loài * Bồng chanh đỏ (_Ceyx
**Giết con chim nhại** (nguyên tác tiếng Anh: _To Kill a Mockingbird_) là cuốn tiểu thuyết của Harper Lee; đây là cuốn tiểu thuyết rất được yêu chuộng, thuộc loại bán chạy nhất thế giới
**HMHS _Britannic**_ là chiếc tàu thứ ba và cũng là lớn nhất trong ba con tàu hạng _Olympic_ của hãng tàu White Star Line, cùng hai chiếc tàu trước nó: RMS _Olympic_ và RMS _Titanic_.
nhỏ|phải|[[Vẹt Kea được cho là loài thông minh]] **Trí thông minh ở chim** đề cập đến định nghĩa về sự nhận thức và sự đo lường của nó áp dụng cho các loài chim. Về
là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Murakami Haruki. Bản dịch tiếng Việt do Trần Tiễn Cao Đăng dịch dựa theo bản tiếng Anh _The Wind-up Bird Chronicle_ của Jay Rubin và bản dịch