✨Chiến thắng kiểu Pyrros

Chiến thắng kiểu Pyrros

phải|Danh tướng [[Pyrros của Ipiros|Pyrros của Hy Lạp cổ đại]] Chiến thắng kiểu Pyrros hay Chiến thắng kiểu Pyrrhic là một thành ngữ để chỉ một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp ở phe chiến thắng mà nó tương đương với thất bại. Một người nào đó nhận chiến thắng kiểu Pyrros cũng đã phải chịu những thiệt hại nặng nề hoặc ảnh hưởng đến sự tiến bộ lâu dài.

Thuật ngữ này được đặt tên theo vị vua - chiến binh kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp) là Pyrros. Trong cuộc chiến tranh cùng tên, ông đánh tan tác quân La Mã trong trận đánh tại Heraclea vào năm 280 trước Công nguyên, và mất không ít cận tướng trung thành và xuất sắc hơn cả trong trận thắng này. Sau đó, ông lại một lần nữa đánh tan tác quân La Mã trong trận đánh tại Asculum vào năm 279 trước Công nguyên. Bản thân ông cũng bị thương ở tay do trúng lao. Sau chiến thắng tại Asculum, khi có ai đó tôn vinh chiến công của ông, nhà vua - do phải chịu tổn thất cực kỳ nặng nề - nên hồi đáp:

Trong cả hai chiến thắng nêu trên, quân đội La Mã đều chịu thương vong nặng hơn rất nhiều so với quân Ipiros. Tuy nhiên, quân La Mã có nguồn binh lực dồi dào và những tổn thất đó không gây ảnh hưởng lớn đến nỗ lực chiến tranh của họ. Trong khi đó, một phần đáng kể các chiến binh của Pyrros đều hy sinh, mà phần lớn trong số các chiến binh trận vong này lại là các bạn hữu và tướng lĩnh hàng đầu của nhà vua. Nhà vua không thể tuyển mộ tân binh, chưa kể các đồng minh của ông cũng không thực sự đoàn kết. Cứ sau mỗi thất bại, người La Mã lại càng tiến gần hơn đến thắng lợi.

Nhiều sử liệu thuật lại câu nói của vua Ipiros sau trận thắng tại Asculum là: "Sau một chiến thắng kiểu này nữa, Ta sẽ đơn thương độc mã quay về xứ Ipiros", hoặc là "Nếu quân ta đánh thắng giặc La Mã thêm một trận nữa, hẳn là quân ta sẽ nhận lấy thất bại."

Một vài ví dụ về "chiến thắng kiểu Pyrros"

  • Vào năm 1288 trước Công Nguyên, vua Ai Cập là Ramesses II thân chinh cầm binh đến Kadesh ở phía Bắc giao chiến với quân Hittite do vua Muwatalli II chỉ huy. Quân Ai Cập bị quân Hittite vây hãm nên thất thế. Tuy nhiên, Ramesses II xoay chuyển tình hình và đánh tan tác quân Hittite. Tuy nhiên, đây là một chiến thắng kiểu Pyrros vì ông không thể chiếm nổi Kadesh.
  • Vào năm 394 trước Công Nguyên, vua xứ Sparta là Agesilaos II giành chiến thắng kiểu Pyrros trước liên quân Thebes - Argos trong Koronea vào năm 394 trước Công Nguyên, trong cuộc chiến tranh Kórinthos giữa các thị quốc Hy Lạp cổ đại.
  • Vào năm 362 trước Công Nguyên, trong trận Mantinea, quân Thebes giành chiến thắng kiểu Pyrros trước quân Sparta. Cái giá của chiến thắng này là thất bại trong tham vọng bành trướng của người Thebes, kết thúc những năm tháng bá chủ của họ trên toàn cõi Hy Lạp. Danh tướng Thebes là Epaminondas cũng hy sinh trong trận đánh này.
  • Trong trận Heraclea vào năm 280 trước Công Nguyên (cuộc Chiến tranh Pyrros tại Ý), vua xứ Ipiros là Pyrros cùng với quân dân Tarentum đại thắng quân La Mã. Quân La Mã tổn thất nhiều hơn, nhưng binh lực của Pyrros cũng hao tổn cao và trong số đó có biết bao nhiêu là cận tướng của ông.
  • Vào năm 279 trước Công Nguyên, Pyrros cùng với quân dân Đại Hy Lạp một lần nữa đánh bại quân La Mã trong trận Asculum. Cả hai bên đều hứng chịu tổn thất kinh hoàng, nhưng Pyrros không thể có thêm tiếp tế về binh lực và hậu cần do đó đứng bên bờ thất bại. Chính thuật ngữ "chiến thắng kiểu Pyrros" xuất phát từ biển cố này.
  • Tuy giành được nhiều chiến thắng quan trọng trong cuộc Thập tự chinh thứ ba và lấy lại được một vài lãnh thổ tại Levant, nhưng quân Thập tự không thể nào lấy lại được thánh địa Jerusalem như kế hoạch ban đầu và các lãnh thổ quan trọng khác tại Levant. Điều này khiến Các quốc gia Thập tự chinh không thể khôi phục lại được sức mạnh trước đây và càng ngày càng bị lấn áp trước người Hồi giáo, cuối cùng dẫn tới sự suy vong của những quốc gia này Trong cuộc Chiến tranh Ottoman-Habsburg, khi hạm đội Ottoman tấn công xứ Malta và vây hãm pháo đài Thánh Elmo của quân dân Malta (1565), Bộ Tư lệnh quân Ottoman đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng. Tuy họ vẫn kiên quyết đánh chiếm Malta, quân Ottoman chịu tổn thất nặng nề và quan Tổng đốc quân sự Turgut Reis cũng hy sinh. Thành thử, dù thành Thánh Elmo thất thủ, sau cùng quân Ottoman không thể thắng nổi Malta. Trong cuộc Chiến tranh Ottoman-Venezia lần thứ năm, hạm đội Liên minh thần thánh đại thắng thủy binh Ottoman trong Lepanto vào năm 1571. Tuy chiến thắng này mang lại vinh dự cho Ki-tô giáo, người Ottoman quyết tâm phục thù. Trong khi ấy, Liên minh thần thánh đã hứng chịu tổn thất nặng nề và gặp nhiều khó khăn. Vào năm 1574, triều đình Ottoman phái một hạm đội đổ bộ lên xứ Tunis ở Phi châu và quét sạch quân Tây Ban Nha tại đây. Trận Lützen (1632) - Chiến tranh Ba mươi năm Trận Friedlingen (1702) – Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha Trận Malplaquet (1709) – Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Quân Pháp mặc dù thua trận nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, trong khi liên quân Anh-Áo-Hà Lan chịu thiệt hại quá nặng (gấp đôi quân Pháp). Điều này đã thúc đẩy Anh đàm phán riêng rẽ với Pháp, rút lui khỏi chiến tranh và là tiền đề cho đại thắng Denain của người Pháp một năm sau đó. Trận Fontenoy (1745) - Chiến tranh Kế vị Áo
  • Vào năm 1758, trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng quyết định trước quân Nga trong trận Zorndorf tàn khốc, kéo dài hai ngày. Tuy quân Nga phải rút lui, đồng thời hứng chịu thương vong khủng khiếp và không thể hợp binh với đồng minh của mình, quân Phổ cũng phải hứng chịu không biết bao nhiêu là mất mát. Vào năm 1759, trong trận Kunersdorf, Nguyên soái Nga là Pyotr Semonoyovich Saltykov suýt thua quân Phổ của Friedrich II Đại Đế. Sau liên quân Nga - Áo hợp lực đánh thắng Phổ, nhưng Saltykov nhận thấy quân Nga chịu tổn thất quá kinh hoàng nên không thể truy kích quân Phổ, tạo điều kiện cho vua Phổ gây dựng lại binh lực của ông Sang năm 1760 thì vua Friedrich II Đại Đế lại thân chinh đem binh đi đánh tan nát quân Áo trong trận Torgau kịch liệt. Tuy nhiên, để đạt được chiến thắng này thì ông phải hứng chịu vô vàn thương vong. Do đó, sau khi thắng trận tại Torgau thì nhà vua không còn có tư tưởng chủ động tấn công các cường địch nữa, mà thay vì đó ông tổ chức phòng thủ, mặc dù chiến thắng tại Torgau cũng khiến cho người Áo tuyệt vọng vì họ cảm thấy mình khó thể nào đánh bại các dũng sĩ Phổ. Trận Bunker Hill (1775) – Cách mạng Mỹ Trận Tòa án Guilford (1781) – Cách mạng Mỹ Trận Crête à Pierrot (1802) - Cách mạng Haiti Trận Borodino (1812) - Chiến tranh Pháp-Nga, 1812 Trận Lützen (1813) - Chiến tranh Liên quân lần thứ sáu Trận Bautzen (1813) - Chiến tranh Liên quân lần thứ sáu Trận Dresden (1813) - Chiến tranh Liên quân lần thứ sáu Trận Alamo (1836) - Cách mạng Texas Trận Solferino (1859) - Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai Trận Antietam (1862) - Nội chiến Hoa Kỳ Trận Chancellorsville (1863) - Nội chiến Hoa Kỳ Trận Chickamauga (1863) - Nội chiến Hoa Kỳ Trận Isandlwana (1879) - Chiến tranh Anh-Zulu Trận Phụng Thiên (1905) - Chiến tranh Nga-Nhật Cuộc tổng tấn công của Brusilov (1916) - Chiến tranh thế giới lần thứ nhất Trận Vũ Hán (1938) – Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai Trận Crete (1941) – Chiến tranh thế giới lần thứ hai Trận Thành cổ Quảng Trị (1972) - Chiến tranh Việt Nam *Trận Vukovar (1991) – Chiến tranh giành độc lập Croatia
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|Danh tướng [[Pyrros của Ipiros|Pyrros của Hy Lạp cổ đại]] **Chiến thắng kiểu Pyrros** hay **Chiến thắng kiểu Pyrrhic** là một thành ngữ để chỉ một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp
nhỏ|Tượng [[Victoria (thần thoại)|Nữ thần Chiến thắng tại Khải hoàn môn Wellington, thủ đô Luân Đôn.]] **Chiến thắng**, còn gọi là **thắng lợi**, là một thuật ngữ, vốn được áp dụng cho chiến tranh, để
**Pyrros**, (; 319 – 272 trước Công nguyên) là nhà quân sự, chính trị Hy Lạp cổ đại. Pyrros làm vua xứ Ipiros lần đầu từ năm 306 đến 302 trước Công nguyên, lần hai
**Cuộc chiến tranh Pyrros** (280 - 275 trước Công nguyên) là một loạt các trận đánh và sự thay đổi liên minh chính trị phức tạp giữa người Hy Lạp (cụ thể là Ipiros, Macedonia
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Liên minh thứ tư** được hình thành chỉ vài tháng sau khi Liên minh thứ ba tan rã. Liên minh thứ tư gồm có các Vương quốc Anh, Nga, Phổ, Thụy Điển, Sicilia nhằm chống
Ngày **27 tháng 10** là ngày thứ 300 (301 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 65 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1075 – Vi Thủ An dẫn 700 quân tấn công trại
**Trận Donbas** hay **Mặt trận Donbas** hay **Chiến dịch Donbas** là một chuỗi các cuộc tấn công quân sự nằm trong chiến dịch miền Đông Ukraina khi Nga xâm lược Ukraina. Cuộc tấn công bắt
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Trận Malplaquet** là một trong những trận đánh lớn của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, diễn ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1709. Trong trận đánh này, quân Đồng minh Áo, Anh,
thumb|Tranh Bà Triệu cưỡi voi **Voi chiến** là voi được huấn luyện dưới sự chỉ huy của con người để giao chiến. Mục đích chính là tấn công đối phương, giày xéo và phá vỡ
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội
**Trận Vũ Hán** () hay **Trận phòng thủ Vũ Hán** () theo cách gọi của người Trung Quốc và **Cuộc tấn công Vũ Hán** () theo cách gọi của người Nhật là một trận đánh
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov** (hoặc **Mikhain Illariônôvích Cutudốp** trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự,
**Trận sông Marne lần thứ nhất** là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Đức và liên quân Anh - Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất từ ngày 5 tháng 9 cho
**Helmut Josef Michael Kohl** (3 tháng 4 năm 1930 – 16 tháng 6 năm 2017) là một chính khách và chính trị gia bảo thủ Đức. Ông từng là Thủ tướng Đức từ năm 1982
**Trận chiến Eylau** là một trận đánh lớn trong cuộc Chiến tranh Liên minh thứ tư trong những cuộc chiến tranh của Napoléon, diễn ra từ ngày 7 cho đến ngày 8 tháng 2 năm
**Trận Chickamauga**, diễn ra vào các ngày 19–20 tháng 9 năm 1863, Đây là thất bại nặng nề nhất của quân miền Bắc tại Mặt trận miền Tây, nhưng cũng được xem là một chiến
**Trận Lützen** diễn ra vào ngày 2 tháng 5 năm 1813, là trận đánh lớn đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Giải phóng dân tộc Đức chống lại Hoàng đế Napoléon Bonaparte nước Pháp. Liên
**Trận Bautzen** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức là một phần của cuộc Chiến tranh Liên minh thứ sáu trong các cuộc chiến tranh của Napoléon, diễn ra từ ngày
**Trận sông Aisne lần thứ hai**, còn gọi là **Trận Chemin des Dames** (, hoặc là ), là một trận chiến tiêu biểu giữa Pháp và Đế quốc Đức trên Mặt trận phía Tây của
**Trận Lutzen** (16 tháng 11 năm 1632) là một trong những trận đánh quan trọng nhất và đẫm máu nhất của Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618 - 1648). Mặc dù cả hai bên đều
**Trận Trautenau** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, Tuy nhiên, chiến thắng này không mang lại thành quả chiến lược cho Quân đội Áo và có thể được xem là một chiến
**Ipiros** (Tiếng Hy Lạp: Ήπειρος Ipiros, tiếng Tây Bắc Hy Lạp: Ἅπειρος Apiros) là một quốc gia thời Hy Lạp cổ đại, nằm trong khu vực địa lý của Ipiros, ở phía Tây Balkan. Quê
Bá tước **Pyotr Alexandrovich Rumyantsev-Zadunaisky**, còn được viết là **Rumiantsof**, **Romanzow** hay **Romanzoff** (15 tháng 1 năm 1725 – 19 tháng 12 năm 1796) là một trong những vị thống soái lỗi lạc nhất của
**Shahrbaraz**, còn được gọi là **Shahrvaraz** (tiếng Ba Tư: شهربراز, tiếng trung Ba Tư: 𐭧𐭱𐭨𐭥𐭥𐭥𐭰 Šahrwarāz, qua đời ngày 17 tháng 6 năm 629), là vua của đế chế Sassanid từ ngày 27 tháng 4
**Đáp Lý Ba Hãn** (Delbeg) (ᠳᠡᠯᠪᠡ, Дэлбэг, hay **Dalbag**, 1395–1415) là một Khả hãn bù nhìn của nhà Bắc Nguyên ở Mông Cổ, do người Oirat dựng lên. Người Oirat cuối cùng đã đưa đứa
**Trận Berezina** (hay **trận Beresina**) là một trận chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga (1812) diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 11 năm 1812 tại thị trấn Borisov (nay thuộc Belarus) bên
**Antigonos II Gonatas** (tiếng Hy Lạp: _Αντίγονος B΄ Γονατᾶς_, 319 – 239 TCN) là vị quốc vương đã thiết lập triều đại Antigonos ở Macedonia. Ông là một vị vua đầy quyền uy và nổi
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Demetrios Poliorketes** (tiếng Hy Lạp: **Δημήτριος Πολιορκητής**, Latin hóa: **Demetrius Poliorcetes**; * 337 TCN; † 283 TCN tại Apameia) là một vị tướng của Macedonia, và là vị quốc vương Diadochi của nhà Antigonos, cầm
nhỏ|"[[Capitoline Brutus", một bức tượng chân dung có thể miêu tả Lucius Junius Brutus, người đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại vị vua cuối cùng của Rome và là người sáng lập ra
**La Mã cổ đại** là nền văn
**Hamilcar Barca** hoặc **Barcas** (khoảng 275 - 228 TCN) là một vị tướng lĩnh và chính khách người Carthage, ông còn là người đứng đầu gia tộc Barca và là cha của Hannibal, Hasdrubal Barca