Bộ Quy tắc Nürnberg () là các nguyên tắc đạo đức nghiên cứu cho việc thử nghiệm trên cơ thể người được đưa ra trong Phiên tòa Bác sĩ, một trong những phiên tòa Nürnberg tiếp theo được tổ chức sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Ban đầu là một phần của phán quyết trong Phiên tòa Bác sĩ, Bộ Quy tắc Nürnberg trở nên quan trọng đối với thử nghiệm trên cơ thể người. Trong một bài phê bình được viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm phán quyết Phiên tòa Bác sĩ, bác sĩ Jay Katz viết rằng "nội hàm của bản án cho thấy [các tác giả] muốn Bộ Quy tắc Nürnberg được áp dụng mọi lúc mọi nơi cho việc thử nghiệm trên cơ thể người."
Bối cảnh
Từ giữa thập niên 1920, các bác sĩ người Đức, thường là những người ủng hộ ưu sinh chủng tộc, bị dư luận và giới y khoa cáo buộc là thực hành y khoa trái đạo đức. Chính phủ Đức ủng hộ ưu sinh chủng tộc nhằm thúc đẩy chủng tộc Arya. Những người ủng hộ ưu sinh chủng tộc cực đoan lấy chủ nghĩa quốc xã làm cơ sở chủ trương sử dụng sinh học nhằm đạt được sự thuần khiết chủng tộc, một khái niệm cốt lõi trong chủ nghĩa quốc xã. Năm 1929, Liên đoàn Bác sĩ Quốc gia Xã hội chủ nghĩa được thành lập để "thanh lọc cộng đồng y khoa Đức khỏi 'chủ nghĩa Bolshevik Do Thái'." Tuy nhiên, ưu sinh chủng tộc vấp phải sự phản đối. Ví dụ: Alfons Stauder, thành viên Văn phòng Y tế Đức, và bác sĩ Fredrich von Muller, chủ tịch Viện Hàn lâm Đức, chỉ trích việc thử nghiệm ưu sinh chủng tộc là "đáng ngờ" và "không có tác dụng điều trị".
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Karl_Brandt_SS-Arzt.jpg|nhỏ|[[:en:Karl_Brandt|Karl Brandt, bị cáo chính trong Phiên tòa Bác sĩ tại tòa án quân sự Hoa Kỳ dẫn tới Bộ Quy tắc Nürnberg]]
Nhằm chấn chỉnh việc thử nghiệm trên cơ thể người, Cộng hòa Weimar ban hành "Hướng dẫn về liệu pháp mới và thử nghiệm trên cơ thể người", lấy nguyên tắc làm điều thiện và không gây hại làm cơ sở và nhấn mạnh sự đồng ý có hiểu biết. Hướng dẫn phân biệt giữa nghiên cứu điều trị và nghiên cứu không điều trị. Đối với nghiên cứu điều trị, chỉ được phép cho người bệnh dùng thuốc mà không có sự đồng ý trong trường hợp khẩn cấp, còn đối với nghiên cứu không điều trị, việc cho người bệnh dùng thuốc mà không có sự đồng ý bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, hướng dẫn này bị Adolf Hitler bãi bỏ. Năm 1942, Đảng Quốc Xã có hơn 38.000 đảng viên là bác sĩ, những người giúp thực hiện các chương trình y tế theo thuyết ưu sinh như Luật Triệt sản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Khối Đồng Minh tổ chức một loạt các phiên tòa xét xử các đảng viên Đảng Quốc xã về tội ác chiến tranh. Các phiên tòa được Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman chấp thuận vào ngày 2 tháng 5 năm 1945, do Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô chủ trì. Ngày 20 tháng 11 năm 1945, Tòa án Nürnberg bắt đầu xét xử tại Nürnberg, Đức. Phiên tòa Bác sĩ do tòa án quân sự Hoa Kỳ tổ chức đưa ra xét xử các bác sĩ thực hiện các thủ thuật y học trái đạo đức trên cơ thể người, tập trung vào những bác sĩ tiến hành các thử nghiệm trên cơ thể người trong các trại tập trung và những bác sĩ chịu trách nhiệm triệt sản hơn 3,5 triệu người.
Một số bị cáo bào chữa rằng các thử nghiệm của họ không khác so với các thử nghiệm trước chiến tranh và không có luật nào quy định về việc thử nghiệm bất hợp pháp Tháng 4 năm 1947, Leo Alexander, cố vấn y học của bên công tố, đệ trình một bản ghi nhớ lên Công tố viên phụ trách tội ác chiến tranh Hoa Kỳ đặt ra sáu điểm định nghĩa nghiên cứu y học hợp pháp.
Một phiên bản đầu tiên của Bộ Quy tắc Nürnberg được soạn thảo vào ngày 9 tháng 8 năm 1947, nêu rõ việc thử nghiệm trên cơ thể người phải có sự đồng ý tự nguyện rõ ràng. Ngày 20 tháng 8 năm 1947, Karl Brandt và 22 bị cáo khác bị kết tội. Đáp lại các lập luận của cố vấn y học của bên công tố, phán quyết của tòa án sửa đổi sáu điểm ban đầu của Alexander thành mười điểm, được gọi là Bộ Quy tắc Nürnberg, bao gồm các nguyên tắc như sự đồng ý có thông tin và không bị ép buộc; thử nghiệm khoa học phải được thiết kế đúng cách; và sức khoẻ của người được thử nghiệm phải được ưu tiên. Bộ Quy tắc Nürnberg được cho là dựa trên Lời thề Hippocrates, vốn được hiểu là cho phép thử nghiệm y học trong khi bảo vệ người bệnh.
Tranh chấp về tác giả
Tuy ban đầu bị bỏ qua nhưng Bộ Quy tắc Nürnberg trở nên quan trọng hơn nhiều 20 năm sau khi được công bố, gây ra nhiều tranh cãi về tác giả của Bộ Quy tắc. Một số người cho rằng Harold Sebring, một trong ba thẩm phán người Mỹ chủ trì Phiên tòa Bác sĩ, là tác giả. Bác sĩ Leo Alexander và Bác sĩ Andrew Ivy, hai chuyên gia y học hàng đầu của bên công tố, cũng được xác định là tác giả. Trong lá thư gửi cho Maurice Henry Pappworth, một bác sĩ người Anh và là tác giả của cuốn sách Human Guinea Pigs xuất bản năm 1967, Andrew Ivy tuyên bố mình là tác giả duy nhất của Bộ Quy tắc. Leo Alexander, khoảng 30 năm sau phiên tòa, cũng tuyên bố mình là tác giả duy nhất. Tuy nhiên, biên bản phiên tòa, các tài liệu hồ sơ và phán quyết cho thấy rằng Bộ Quy tắc không do một ai soạn thảo mà hình thành từ chính phiên tòa.
Nội dung
Bộ Quy tắc Nürnberg gồm mười điểm được đưa ra trong phần "Thử nghiệm y học được phép" của phán quyết trong Phiên tòa Bác sĩ:
Ý nghĩa
Bộ Quy tắc Nürnberg chưa được bất kỳ quốc gia hoặc hiệp hội nào chấp nhận là luật hoặc quy tắc đạo đức. Ban đầu, Bộ Quy tắc không được Hiệp hội Y học Hoa Kỳ ủng hộ vì yêu cầu nghĩa vụ Hippocrates đối với người bệnh và nhu cầu cung cấp thông tin. Katz nhận xét rằng thế giới phương Tây ban đầu cho rằng Bộ Quy tắc Nürnberg là "bộ quy tắc dành cho những kẻ man rợ nhưng không cần thiết (hoặc thừa thãi) đối với những bác sĩ bình thường". Ngoài ra, phán quyết không xác định việc Bộ Quy tắc có được áp dụng cho những trường hợp như tù nhân chính trị, tội phạm bị kết án và những người tự nguyện khỏe mạnh hay không.[cần trích dẫn] Sự thiếu rõ ràng, tính tàn bạo của các thử nghiệm y học trái đạo đức và ngôn ngữ cứng rắn của Bộ Quy tắc tạo ấn tượng rằng nó chỉ được áp dụng đối với những sai phạm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, Bộ Quy tắc Nürnberg được coi là văn bản quan trọng nhất trong lịch sử đạo đức nghiên cứu, có ảnh hưởng to lớn đến nhân quyền toàn cầu. Năm 1991, Bộ Y tế và Dịch vụ nhân sinh Hoa Kỳ ban hành Quy tắc chung một phần dựa trên Bộ Quy tắc Nürnberg và Tuyên bố Helsinki, quy định hội đồng đạo đức có nhiệm vụ giám sát tất cả nghiên cứu liên quan đến con người. Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cấm thử nghiệm y học hoặc khoa học trên cơ thể người nếu không có sự đồng ý có thông tin của người được thử nghiệm.
Trong bài phê bình năm 2014, Gaw nhận xét rằng Bộ Quy tắc Nürnberg "không chỉ đi vào pháp lý mà còn trở thành nguyên mẫu cho tất cả các bộ quy tắc đạo đức trong tương lai trên toàn cầu". Sự đồng ý có thông tin là cơ sở cho Nguyên tắc đạo đức quốc tế về nghiên cứu y sinh liên quan đến con người của Tổ chức Y tế Thế giới.
Năm 1995, Tòa án quận Nam Ohio phán quyết rằng có thể áp dụng Bộ Quy tắc Nürnberg trong tố tụng hình sự và dân sự tại tòa án liên bang Hoa Kỳ.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bộ Quy tắc Nürnberg** () là các nguyên tắc đạo đức nghiên cứu cho việc thử nghiệm trên cơ thể người được đưa ra trong Phiên tòa Bác sĩ, một trong những phiên tòa Nürnberg
nhỏ|Ảnh chụp Hội đồng thẩm phán từ trên cao, năm 1945 **Phiên tòa Nürnberg** () là các phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở Nürnberg, Đức theo luật quốc tế và luật
thumb|Mạng lưới đường cao tốc ở châu Âu từ tháng 12 năm 2012. **Mạng lưới Đường bộ Quốc tế châu Âu** là một hệ thống đánh số cho các tuyến đường giao thông ở châu
nhỏ| Đèn đường lúc [[hoàng hôn ở Nam Phi ]] nhỏ|225x225px| Một đèn đường chạy bằng sức gió ở [[Urmia, Iran ]] phải|nhỏ|150x150px| Đèn đường tại [[Amerika Plads ở Copenhagen ]] **Đèn đường** là một
nhỏ|Một hiện trường vụ án **Nullum crimen, nulla poena sine praevia lege poenali** (tiếng La tinh, nghĩa đen là _Không là tội phạm (có thể đã được thực hiện), không có hình phạt (có thể
nhỏ|Vòm ánh sáng, Đại hội Đảng Quốc xã năm 1936 nhỏ|Đại hội Đảng lần thứ ba (Nürnberg, 1927) **Đại hội Đảng Quốc xã** (, _Đại hội Đảng Đế chế_) ngày nay thường được dùng để
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Chánh án Hoa Kỳ** () là chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ và quan chức cấp cao nhất của ngành tư pháp liên bang Hoa Kỳ. Đoạn 2 Khoản 2 Điều II Hiến
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Allianz Arena** () là một sân vận động bóng đá ở München, Bayern, Đức. Sân có sức chứa 70.000 chỗ ngồi cho các trận đấu quốc tế và 75.000 chỗ ngồi cho các trận đấu
**Tuyển đế hầu** (; ; ), còn được gọi tắt là **Tuyển hầu**, là tước vị dưới thời đại Đế quốc La Mã Thần thánh, dành để gọi những người trong Đại cử tri đoàn
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Lập phương Rubik** (**khối rubik** hay đơn giản là **rubik**) là một trò chơi giải đố cơ học được giáo sư kiến trúc, nhà điêu khắc người Hungary, Ernő Rubik phát minh vào năm 1974.
thumb|Người ký đầu tiên [[Joachim Gauck]] thumb|Người ký đầu tiên [[Vytautas Landsbergis]] **Tuyên ngôn về tội ác Chủ nghĩa Cộng sản** là bài diễn văn được một số chính trị gia châu Âu, những tù
nhỏ|Hình ảnh những người đang chào theo kiểu Quốc xã, trong khi một người không xác định danh tính tên August Landmesser từ chối làm như vậy. **Phong trào chống đối Hitler** gồm những hoạt
**Albrecht Dürer** (; ; 21 tháng 5 năm 1471 – 6 tháng 4 năm 1528) là một họa sĩ, một nhà đồ họa và một lý thuyết gia về nghệ thuật nổi tiếng ở châu
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Sicherheitsdienst** (tiếng Đức của "Cục An ninh", viết tắt **SD**) là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. SD là một tên tắt đã gây kinh hoàng cho nhiều người Đức
**Hiệp ước München**, hoặc **Hiệp ước Munich** là một thỏa thuận được ký kết tại Munich vào ngày 30 tháng 9 năm 1938, giữa Đức Quốc xã, Anh quốc, Cộng hòa Pháp và Phát xít
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Gestapo** là tên gọi tắt của **Geheime Staatspolizei**, là Lực lượng Cảnh sát Bí mật (hoặc **Mật vụ**) của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra và ở châu Âu do Đức Quốc
nhỏ|Một ngôi nhà bánh mì gừng mua ở cửa hàng điển hình **Nhà bánh mì gừng** là một dạng bánh kẹo được tạo tác có hình dạng giống như một tòa nhà; làm từ bột
nhỏ|phải|Tượng con Tê giác trước [[Bảo tàng d'Orsay của Henri Alfred Jacquemart, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm tê giác của Johann Dietrich Findorff **Hình tượng
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
**Augsburg** (phiên âm tiếng Việt: **Au-xbuốc**; , , ; ) là một thành phố nằm tại Schwaben, bang Bayern, miền nam Đức. Đây là thành phố lớn thứ ba ở bang sau Munich và Nuremberg
**Chiến tranh nông dân ở Đức** (hay **cuộc cách mạng của thường dân**) là toàn bộ các cuộc nổi dậy của nông dân, những người ở thành thị và các công nhân hầm mỏ, bùng
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
Nạn diệt chủng **Holocaust** (từ tiếng Hy Lạp: **': _hólos_, "toàn bộ" và _kaustós_, "thiêu đốt"), còn được biết đến với tên gọi **Shoah_' (tiếng Hebrew: , _HaShoah'', "thảm họa lớn"), là một cuộc diệt
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Xe tăng Panther** (_Con Báo_) là tên một loại xe tăng hạng trung phục vụ cho quân đội Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**HMS _Invincible**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu
**Georg Wilhelm Friedrich Hegel** (; Ludwig Fischer và mẹ cậu bé vẫn sống ở Jena. thumb|upright=0.7|[[Friedrich Immanuel Niethammer (1766–1848) rộng lượng hỗ trợ tài chính cho Hegel và giúp ông có được nhiều chức vụ.]]
**Đại dịch COVID-19 tại Đức** là một phần của đại dịch COVID-19 toàn cầu do chủng virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2) gây ra. Trường hợp lây nhiễm đầu
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**Nicolaus Copernicus** (theo tiếng Latinh; tiếng Ba Lan: _Mikołaj Kopernik_, tiếng Đức: _Nikolaus Kopernikus_, thường được phiên âm trong tiếng Việt là **Cô-péc-ních** theo tiếng Pháp _Nicolas Copernic_) (19 tháng 2, 1473 – 24 tháng 5,
**Robert Lewandowski** (; sinh ngày 21 tháng 8 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ba Lan hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ
nhỏ|Tấm ảnh dường như cho thấy UFO chụp ngày 31 tháng Bảy năm 1952 ở [[New Jersey]] Một **vật thể bay không xác định**, còn được gọi là **UFO** (viết tắt của trong tiếng Anh)
**Erwin Johannes Eugen Rommel** (15/11/1891 - 14/10/1944) còn được biết đến với tên **Cáo Sa mạc**, _Wüstenfuchs_ , là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh