Bộ Kinh Vân (Tiếng Trung Quốc: 步驚雲) là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện tranh Phong Vân của hai tác giả Hồng Kông Mã Vinh Thành và Đan Thanh.
Thuở nhỏ anh có tên là Hoắc Kinh Giác, sau khi gia nhập Thiên Hạ Hội, anh lấy lại tên là Bộ Kinh Vân.
Bộ Kinh Vân được giang hồ biết đến với một tính cách khá kỳ lạ: với bản chất lạnh lùng, trầm tĩnh và ít biểu lộ tình cảm ra bên ngoài, anh ta thường bị cho là quá lạnh nhạt và nhẫn tâm. Tình cảm của anh ta dành cho thế giới gần như không có, có chăng chỉ là đối với rất ít người như: Nhiếp Phong (sư đệ tại Thiên Hạ Hội), Hoắc Bộ Thiên - cha nuôi, Khổng Từ (tình yêu đầu tiên), Sở Sở (con gái của Vu Nhạc, người đã tặng cánh tay kì lân cho Bộ Kinh Vân), người vợ Tử Ngưng và sư phụ Vô Danh, con trai Bộ Thiên, con gái Tiểu Đình.
Nhân vật Bộ Kinh Vân được diễn viên Hà Nhuận Đông thể hiện trong bộ phim Phong Vân: Hùng Bá Thiên Hạ.
Tu luyện võ công
9 tuổi, làm con nuôi trong nhà họ Hoắc, Kinh Vân được kế phụ Hoắc Bộ Thiên truyền cho bộ Hoắc gia kiếm pháp. Có thể nói, Kinh Vân có được lòng hiếu võ là từ Hoắc Bộ Thiên.
Sau cái chết của cả gia đình dưới tay Thiên Hạ Hội, Bộ Kinh Vân gặp gỡ Vô Danh, và lén học được một chiêu mạnh nhất trong Mạc Danh Kiếm Pháp là Bi Thống Mạc Danh. Điều kỳ lạ là đệ tử Kiếm Thần của Vô Danh tư chất không tầm thường, lại luyện Mạc Danh Kiếm Pháp từ nhỏ mà chỉ còn mỗi chiêu đó không sao luyện thành, còn Kinh Vân học lén mà lại thành công. Vô Danh giải thích là do kiếm ý bi thống, đầy oán sầu hợp với trải nghiệm và tính cách của Kinh Vân.
Sau khi bị Vô Danh từ chối nhận làm đồ đệ, anh tim đến với Thiên Hạ Hội, với mục đích trà trộn vào hòng trả mối thù giết hại gia đinh. Một điều bất ngờ đã xảy ra: Hùng Bá, bang chủ Thiên Hạ Hội đã đặc biệt quan tâm tới Bộ Kinh Vân và ngay lập tức chọn anh ta làm đệ tử - đường chủ thứ 2, sau Tần Sương và truyền dạy một trong ba tuyệt học của mình là Bài Vân Chưởng - chính là môn sở trường của anh.
Nhờ cơ duyên, anh có được kiếm phổ Thánh Linh Nhị thập nhị thức (22 thức Thánh Linh kiếm pháp) của Kiếm Thánh.
Nhiều chuyện phức tạp diễn ra sau đó, dẫn đến việc Hùng Bá bị 3 anh em Phong Vân Sương tiêu diệt. Tiếp theo đó là cuộc xâm lăng của người Đông Doanh (cách người Trung Quốc xưa gọi Nhật Bản). Vô Danh cuối cùng cũng nhận anh làm đồ đệ, còn giúp anh đã ngộ ra một bộ kiếm pháp mới, và được Vô Danh đặt tên là Tam Bá Kiếm. Ba chiêu kiếm tuy là kiếm nhưng lại có sự bá đạo của đao, đạt đến cảnh giới Hữu Hình Kiếm Khí.
Sau này, dựa trên kiếm ý đó, anh ta cũng sáng tạo ra một bộ chưởng pháp khác, tên gọi là Tam Bá Chưởng.
Từ lúc đó cho tới trận quyết đấu với Đoạn Lãng (trong trận quyết chiến với Ma kì lân Đoạn Lãng để đề thăng công lực Bộ Kinh Vân đã tìm đến Thần Y và phục Nghịch càn khôn; ngoài ra Bộ Kinh Vân còn có Tý kỳ lân cũng là một sản phẩm của Thần Y) - kết thúc phần 2 truyện, Bộ Kinh Vân không học thêm 1 võ công nào nữa; tuy nhiên công lực thì có đột phá rất lớn nhờ Phục Long Nguyên.
Sau này, nhờ cơ duyên, trong thành cổ ở Đại Mạc, Bộ Kinh Vân học được Vô Cầu Dịch Quyết. Đây không hẳn là chiêu số của một loại võ công nào mà là một bộ tâm pháp và chiêu ý, với yếu chỉ là "Vạn vật vi nhất khí tự hóa".
Vũ khí
Tuyệt Thế Hảo Kiếm - một thanh kiếm đặc biệt, toàn một màu đen lạnh lẽo, là thanh kiếm mà rất nhiều đúc kiếm sư bỏ ra công sức mà không tạo thành được. Bọn họ chỉ có thể tạo ra được kiếm hình, chứ không thể tạo được kiếm hồn. Bái Kiếm Sơn Trang đúc cả ngàn thanh kiếm cũng chỉ cho ra được một thanh Tuyệt Thế Hảo Kiếm...
Theo truyền thuyết thì thanh kiếm này dùng để giết Hỏa Kỳ Lân, một hung thú trong Tứ Linh. Truyền thuyết cũng nói rằng thanh kiếm này được đúc từ khối thiên thạch mang tên Hắc Hàn. Có cùng xuất xứ với thứ thép rèn nên Tuyết Ẩm, vốn là đá năm xưa Nữ Oa dùng để vá trời lưu lạc xuống trần gian.
Nếu Bạch Lộ (đúc thành tuyết Ẩm) là vật chí hàn thứ nhất trong thiên địa, coi Hắc Hàn là vật thiên địa chí hàn thứ hai cũng không ngoa. Nhưng trong màu đen của thép ẩn chứa một trái tim, hoàn toàn khác với hàn khí của Bạch Lộ tán phát ra ngoài, hóa khí thành băng. Màu đen và hàn khí của kiếm hút lấy sức mạnh vạn vật biến thành của mình.
Nhưng Tuyệt thế hảo kiếm cũng là một thanh kiếm mang nặng sát nghiệt, tuy có đủ năng lực cứu nhân gian, nhưng cũng ngạo khí bất khuất, dù làm ngọc nát cũng không làm ngói lành, chỉ xứng với kiếm thủ chân chính cũng hắc ám như nó.
Kinh Vân và Tuyệt Thế Hảo Kiếm nhân kiếm hợp nhất, tâm kiếm tương thông giúp Vân sau này đạt tới cảnh giới thượng thừa trong kiếm đạo.
Kiếm đã từng bị mẻ khi giao phong với Tuyết Ẩm đao, sau được Đế Thích Thiên rèn lại, trên thân kiếm có một vết nứt ở giữa sống kiếm. Vết nứt hình thành khi Ma Khôi đột phá Kiếm giới trốn vào nhân gian.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bộ Kinh Vân** (Tiếng Trung Quốc: 步驚雲) là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện tranh Phong Vân của hai tác giả Hồng Kông Mã Vinh Thành và Đan Thanh. Thuở nhỏ anh có
**Bộ kinh** (tiếng Pali: _nikāya_) là một thuật ngữ thường được dùng để chỉ những tập hợp kinh văn trong Kinh tạng văn hệ Pàli. Chúng được sử dụng gần tương đồng với thuật ngữ
**Bộ Kinh tế và Tài chính** (, ALA-LC: ) là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm quản lý chính sách kinh tế và tài chính tại Vương quốc Campuchia. Theo trang web chính thức,
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
Trong văn hóa đại chúng, hình tượng **con bò** được khắc họa trong nhiều nền văn minh lớn và gắn liền với tín ngưỡng thờ phượng xuất phát từ sự gần gũi và vai trò
_ **Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 般若波羅蜜多經, sa. _prajñāpāramitāsūtra_), cũng được gọi là _ **Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh**_, _ **Huệ đáo bỉ ngạn kinh** _, "Kinh với trí huệ đưa người qua bờ bên kia", là một bộ
**Dây thần kinh vận động** là một loại dây thần kinh nằm ở Hệ thần kinh trung ương (HTKTW), thường là tủy sống, có nhiệm vụ gửi tín hiệu vận động từ HTKTW tới các
**Thập nhị bộ kinh** (chữ Hán: 十二部經), còn gọi là **Thập nhị phần giáo** (十二分教), **Thập nhị phần thánh giáo** (十二分聖教; tiếng Phạn:_dvādaśāṅga-dharma-pravacana_), **Thập nhị phần kinh** (十二分經), **Thập nhị Phật ngữ** (十二佛語; tiếng Phạn:
**Châu Kình Văn** (, 1908 - 1985) là một chính khách, văn sĩ, ký giả Trung Hoa. ## Tiểu sử Châu Kình Văn nguyên là cháu ngoại của tướng quân Trương Tác Tương, sinh năm
là một vị trí được hợp pháp hóa vào ngày 6 tháng 1 năm 2001 do việc thi hành Đạo luật Thành lập Văn phòng Nội các đi kèm với việc tổ chức lại các
**Bộ Bộ Kinh Tâm** là bộ phim truyền hình cổ trang của Trung Quốc được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Đồng Hoa do hãng phim Thượng Hải Đường Nhân sản
nhỏ|phải|Tượng khỉ dâng quả đào tiên cho Đức Phật ở Chùa Thiền Lâm Tự, Vũng Tàu dựa theo tích trong Mahakapi Jataka **_Bản sinh kinh_** (zh. 本生經, sa., pi. _jātaka_ (जातक)) là phần dài nhất
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Kinh điển Phật giáo sơ kỳ** (thuật ngữ tiếng Anh: _Early Buddhist texts_ - **EBT**), hay **Kinh văn Phật giáo sơ kỳ**, là một khái niệm học thuật để chỉ hệ thống các kinh văn
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
**Duy-ma-cật sở thuyết kinh** (, , _Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra_, ) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam
thumb|Vua Di Lan Đà và tì-kheo [[Na Tiên vấn đáp.]] **Di Lan Đà vấn đạo** hay **Mi Lan Đà vấn đạo** (tiếng Pali: _Milindapañhā_, nghĩa là "Những câu hỏi của [vua] Di Lan Đà"), hoặc
**Đạo cán kinh** (chữ Hán: 稻稈經; sa. _Śālistamba Sūtra_; ; _Kinh về cây lúa_) là một kinh văn Phật giáo sơ kỳ. Đây là một trong những kinh văn quan trọng đề cập đến thuyết
**Tiểu bộ kinh** (zh. 小部經, pi. _khuddaka-nikāya_) là bộ thứ năm của năm Bộ kinh trong Kinh tạng (pi. _sutta-piṭaka_) văn hệ Pali. Kinh bao gồm 15 phần. ## Kinh Tiểu tụng Kinh Tiểu tụng
thumb|right|Tượng mô tả đức Phật thuyết kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em [[Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Việt Nam tại Quebec, Canada.]] **_Kinh Chuyển pháp luân_** (chữ Hán: 轉法輪經; _Chuyển pháp
nhỏ|Tượng đồng [[Bồ tát Phật Di lặc trầm ngâm, khoảng thế kỷ thứ 7. Hiện vật nằm trong danh sách quốc bảo của Hàn Quốc.]] **Di-lặc hạ sinh kinh** (tiếng Phạn: आर्यमैत्रेय-व्याकरणम्, _Maitreya-vyākaraṇa_), còn gọi
_ **Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh** _ (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. _vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra_), là một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, được lưu truyền rộng rãi vùng Đông Á. Kinh còn mang những tên ngắn khác
**Phong Vân quyết** (tiếng Trung Quốc: 風雲決) là một bộ phim hoạt hình của đạo diễn Lâm Siêu Hiền, dựa trên cuốn truyện tranh võ hiệp nổi tiếng Phong Vân của tác giả Mã Vinh
**Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh** (sa. _Śūraṃgama-samādhi-sūtra_; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc **Lăng-nghiêm kinh** (楞嚴經), hay còn được gọi là **Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh** (中印度那爛陀大道場經), đã được tất
nhỏ|235x235px|Bản kinh Đại thừa Đại-bát Niết-bàn vào thời [[nhà Tùy (Trung Hoa)]] **Đại thừa Đại Bát-niết-bàn Kinh** (Tiếng Phạn: महापरिनिर्वाण सूत्र, IAST: _Mahāparinirvāṇa Sūtra_, chữ Hán: 大般涅槃經, Bính âm: _Dàbānnièpán-jīng_) là một trong những bộ
**Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm** (zh. 大方廣佛華嚴經, sa. _Mahāvaipulya Buddhāvataṃsaka Sūtra_, ja. _Daihō Kōbutsu Kegonkyō_), thường được gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm (sa. _Avataṃsakasūtra_) là một kinh điển Đại thừa. Kinh Hoa
Trang đầu của bộ _Đại thừa nhập Lăng-già kinh_, bản dịch của [[Thật-xoa-nan-đà]] **Nhập Lăng-già kinh** (, _rù lèngqié jīng_; ; ) là một bộ kinh Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giác
phải|nhỏ|364x364px|Bản Tâm kinh (thể [[văn ngôn) của Triệu Mạnh Phủ, một nhà thư pháp nổi tiếng đời nhà Tống]]
**Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh** (phiên latinh từ Phạn ngữ: _ Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra_,
**Kinh Phạm võng** () là bài kinh đầu tiên trong số 34 bài kinh của Trường Bộ. Tên của bài kinh có nghĩa là "_Lưới (jāla) của Phạm Thiên_". Kinh còn được gọi là _Atthajala_
**_Đại Nhật kinh_** (zh. 大日經, sa. _mahāvairocanābhisaṃbodhi -vikurvitādhiṣṭhāna -vaipulyasūtrendrarāja -nāma -dharmaparyāya_, _mahāvairocanābhi -saṃbodhisūtra_, _mahāvairocanābhisaṃbodhivikurvitādhiṣṭhāna -vaipulyasūtra_) là một bộ kinh quan trọng của Mật tông. Kinh được Đại Sư Thiện Vô Uý (zh. 善無畏, sa. _Śubhākarasiṃha_)
thumb|Bản thảo Phạn văn có minh họa của _Tiểu phẩm bát-nhã kinh_ được tìm thấy ở [[Nepal, niên đại khoảng năm 1511.]] **Tiểu phẩm bát-nhã kinh** (chữ Hán: 小品般若经, phiên âm tiếng Phạn: _Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā
nhỏ|435x435px|[[Kim Quang Minh Kinh bằng Hán tự Kanji (trưng bày ở bảo tàng nghệ thuật Itsuo)]] **Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh** (Tiếng Phạn: सुवर्णप्रभासोत्तमसूत्रेन्द्रराज, IAST: _Suvarṇaprabhāsottamasūtrendrarājaḥsutra_, Phiên âm: Tu-bạt-noa-bà-phả-bà-uất-đa-ma-nhân-đà-la-già-duyệt-na-tu-đa-la) hay được viết tắt
**_Tứ thập nhị chương kinh_** (chữ Hán: 四十二章經, _Kinh Bốn mươi hai chương_') thường được xem là bộ kinh Phật giáo đầu tiên của Ấn Độ được dịch sang chữ Hán. Tuy nhiên, nhiều nhà
**Viên giác kinh** (zh. 圓覺經, _yuánjué-jīng_; ja. _engaku-kyō_, ko. 원각경, _Wongakgyeong;_ en. _The Sutra of Perfect Enlightenment_), tên đầy đủ là **Đại phương quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh** (sa. _mahāvaipulyapūrṇa-buddhasūtra-prasannārtha-sūtra_), là một bộ
nhỏ|287x287Ppx|Quyển kinh A-di-đà bằng [[tiếng Nhật]] **Kinh A-di-đà** (zh. 阿彌陀經, en. Shorter Sukhāvatīvyūha Sūtra) hay **Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm** hoặc **Kinh** **Xưng Tán
**Đại phẩm bát-nhã kinh** (zh. 大品般若經; sa. _Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā_), còn được gọi là **Nhị vạn ngũ thiên tụng bát-nhã** (二萬五千頌般若), **Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật kinh** (摩訶般若波羅蜜經), **Đại phẩm kinh** (大品經), **Đại trí độ vô cực kinh** (大智度無極經),
**_Kinh Tứ niệm xứ_** (tiếng Pali: _Satipaṭṭhāna-sutta_, được trình bày trong Trung bộ kinh) và sau đó là **_Kinh Đại niệm xứ_** (tiếng Pali: _Mahāsatipaṭṭhāna-sutta_, được trình bày trong Trường bộ kinh) là hai bài
_ **Thắng Man kinh** _ (zh. _shèngmán jīng_ 勝鬘經, ja. _shōmangyō_, sa. _śrīmālādevī-sūtra_) là tên gọi ngắn của _ **Thắng Man sư tử hống nhất thừa đại phương tiện phương quảng kinh** _ (_śrīmālādevī-siṃhanādavaipulyasūtra_), là
Kinh **Anguttara Nikàya**, dịch là **Kinh Tăng Chi Bộ**, là bộ thứ tư trong năm bộ kinh tạng Pali: Dìgha Nikàya (Kinh Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Kinh Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Kinh Tương Ưng Bộ),
**Từ kinh** (zh. 慈經, pi. _mettā-sutta_), cũng được gọi là **Từ bi kinh**, là một bài kinh văn hệ Pali, giúp Phật tử phát huy lòng từ ái. Kinh này được phổ biến rất rộng
**Trung bộ kinh** (zh. 中部經, pi. _majjhima-nikāya_) là tuyển bộ thứ hai trong năm Bộ kinh (Nikàya) trong Kinh tạng (pi. _sutta-piṭaka_). Kinh này được viết bằng văn hệ Pali, bao gồm 152 kinh không
**Kinh Ví dụ dấu chân voi** là tên của 2 bài được đánh số 27: **_Tiểu kinh Ví dụ dấu chân voi_** (), và số 28: **_Đại kinh Ví dụ dấu chân voi_** (), trong
(_ 'METI' _) là một bộ trong Nội các Nhật Bản của Chính phủ Nhật Bản. Nó được thành lập bởi Cải cách Chính phủ Trung ương 2001 khi Bộ Thương mại và Công nghiệp
_ **Giải thâm mật kinh** _ (zh. 解深密經, sa. _saṃdhinirmocana-sūtra_, bo. _dgongs pa nges par `grel pa`i mdo_ དགོངས་པ་ངེས་པར་འགྲེལ་པའི་མདོ་), phiên âm Hán-Việt là _ **San-địa-niết-mô-chiết-na-tu-đa-la** _ (zh. 刪地涅謨折那修多羅), là một bộ kinh Đại thừa. Cùng
**_Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh_** (zh. _shŏulèngyán sānmèi jīng_ 首楞嚴三昧經, ja. _shuryōgon sanmaikyō_, ko. _surŭngŏm sammaegyŏng_, sa. _śūraṃgama-samādhi-sūtra_) là một bộ kinh Đại thừa. Tên đầy đủ của kinh này là _Phật nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
**Kinh Đại Bát-niết-bàn** (pi. _Mahāparinibbāṇa Sutta_) là bộ kinh do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trước khi Ngài qua đời. Tại Việt Nam, có hai bản Kinh Niết Bàn của Phật giáo Nam Tông
_ **Tịnh nghiệp chướng kinh** _ (zh. _jìng yèzhàng jīng_ 淨業障經, ja. _jō gōshō kyō_), là một bộ kinh được dịch sang Hán văn, gồm 1 quyển, dịch giả khuyết danh. Bài kinh này có
thế=Lord Buddha|nhỏ|Đức Phật **_Kinh Vô ngã tướng_** (Pali: **'; Phạn ngữ: **'), được xem là bài giảng thứ hai của Đức Phật Gautama theo truyền thống Phật giáo. Kinh này đôi khi còn được gọi
**_Quán Vô Lượng Thọ kinh_** (zh. 觀無量壽經, sa. _Amitāyurdhyāna Sūtra_), còn gọi là **Thập Lục Quán Kinh**, là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh độ tông (cùng với Vô lượng thọ
**_Người tình ánh trăng - Bộ bộ kinh tâm: Lệ_** () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết _Bộ Bộ Kinh Tâm_ của nhà văn Trung Quốc