Tứ thập nhị chương kinh (chữ Hán: 四十二章經, Kinh Bốn mươi hai chương') thường được xem là bộ kinh Phật giáo đầu tiên của Ấn Độ được dịch sang chữ Hán. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, thực chất bộ tuyển tập nhỏ những lời Phật thuyết này có thể đã xuất hiện một thời gian sau những bản dịch bản ngữ đầu tiên được chứng thực, và thậm chí có thể đã được biên soạn ở Trung Á hoặc Trung Quốc. Theo truyền thống, nó được dịch bởi hai nhà sư Nguyệt Chi, Kasyapa Matanga (迦葉摩騰) và Dharmaratna (竺法蘭), vào năm 67. Do sự liên kết của nó với sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc, nên bộ kinh này có một địa vị rất quan trọng trong truyền thống Phật giáo ở Đông Á.
Những ghi chép
Theo Hậu Hán thư và Lý Hoặc Luận, Hán Minh Đế được cho là đã mơ thấy một "người vàng", và được quan viên của mình xác định đó là hình dạng Đức Phật. Sau đó, hoàng đế ra lệnh cho một sứ đoàn đi về phía tây để tìm kiếm vị Phật này. Các tài liệu sau đó bổ sung thông tin khi các sứ thần trở về, dẫn theo hai nhà sư Ấn Độ là Kasyapa Matanga và Dharmaratna, cùng với kinh ảnh. Khi họ đến kinh đô Lạc Dương, hoàng đế đã cho xây dựng chùa Bạch Mã làm nơi để các vị sư tu hành và dịch kinh Phật.
Họ được cho là đã dịch sáu bản kinh, gồm Pháp Hải tạng kinh (法海藏經), Phật bổn hạnh kinh (佛本行經), Thập địa đoạn kết kinh (十地斷結經), Phật bổn sinh kinh (佛本生經), Nhị bách lục thập giới hợp dị (二百六十戒合異), và Tứ thập nhị chương kinh. Tuy nhiên, chỉ duy nhất Tứ thập nhị chương là còn tồn tại.
Các học giả đặt câu hỏi về niên đại và tính xác thực của câu chuyện. Đầu tiên, có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã du nhập vào Trung Quốc trước năm 67 thời Hán Minh đế. Bản kinh cũng không thể có niên đại đáng tin cậy vào thế kỷ thứ nhất. Các học giả cho rằng, có thể là phiên bản mà chúng ta hiện có về cơ bản khác với phiên bản của văn bản được lưu hành vào thế kỷ thứ hai.
Cấu trúc và so sánh
Kinh Tứ thập nhị chương bao gồm một đoạn mở đầu ngắn và 42 chương ngắn (hầu hết dưới 100 chữ Hán), phần lớn gồm những lời trích dẫn của Đức Phật. Hầu hết các chương bắt đầu bằng "Phật nói..." (佛言...), nhưng một số chương cung cấp bối cảnh của một tình huống hoặc một câu hỏi được đặt ra cho Đức Phật. Bản thân kinh sách không được coi là kinh điển chính thức, và các kinh sách ban đầu đề cập đến tác phẩm này đều chép tên dưới dạng là "Bốn mươi hai chương trong Kinh điển Phật giáo" hoặc "Bốn mươi hai chương của Hiếu Minh đế."
Không rõ liệu bản kinh gốc tồn tại trong tiếng Phạn ở dạng này hay là một tập hợp của một loạt đoạn trích từ các tác phẩm kinh điển khác theo cách của Luận ngữ của Khổng Tử. Giả thuyết thứ hai này cũng giải thích sự giống nhau của việc lặp đi lặp lại "Phật nói..." và "Thế tôn nói," quen thuộc trong các văn bản Nho giáo, và có thể là khuynh hướng tự nhiên nhất của các dịch giả Phật giáo trong môi trường Nho giáo, và nhiều khả năng hơn được chấp nhận hơn là một chuyên luận dài. Trong số những người coi nó dựa trên một tác phẩm tiếng Phạn tương ứng, nó được coi là cổ hơn các Kinh điển Đại thừa khác, vì văn phong đơn giản và phương pháp tự nhiên. Các học giả cũng có thể tìm thấy những câu cách ngôn có trong bản kinh này trong nhiều tác phẩm Phật giáo khác như Digha, Majjhima, Samyutta, Anguttara Nikaya, và Mahavagga (Đại phẩm). Hơn nữa, các học giả cũng không chắc liệu tác phẩm được biên soạn lần đầu tiên ở Ấn Độ, Trung Á hay Trung Quốc.
Trong Phật giáo hiện đại
Kinh Tứ thập nhị chương rất nổi tiếng trong Phật giáo Đông Á ngày nay. Nó cũng đã đóng một vai trò trong việc truyền bá Phật giáo sang phương Tây. Shaku Soen (1859-1919), thiền sư Nhật Bản đầu tiên hoằng hóa ở phương Tây, đã thuyết giảng một loạt bài dựa trên kinh này trong chuyến du hành đến Mỹ năm 1905-1906. John Blofeld, cũng đã dịch bản kinh này sang tiếng Anh và giới thiệu trong một loạt bài giảng bắt đầu vào năm 1947.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Tứ thập nhị chương kinh_** (chữ Hán: 四十二章經, _Kinh Bốn mươi hai chương_') thường được xem là bộ kinh Phật giáo đầu tiên của Ấn Độ được dịch sang chữ Hán. Tuy nhiên, nhiều nhà
**Đại tạng kinh** (, _Dàzàngjīng_; , _Daejanggyeong_; , _Daizōkyō_), còn được gọi tắt là **Tạng kinh** (藏經) hay **Nhất thiết kinh** (一切經), là danh xưng dùng để chỉ các tổng tập Kinh điển Phật giáo
:thế=Sư trưởng Hà Dũng - Cao đồ của cụ Hà Châu biểu diễn Quan Âm chưởng; chặt bể gạch tuynel.|nhỏ|220x220px|Sư trưởng Hà Dũng - Cao đồ của cụ [[Hà Châu biểu diễn Quan Âm chưởng;
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**_Lộc Đỉnh ký_** (, tựa tiếng Anh: **_Royal Tramp_**) là một bộ phim điện ảnh võ hiệp hài cổ trang Hồng Kông năm 1992 do Vương Tinh đạo diễn, dựa trên tiểu thuyết cùng tên
**Thiều Chửu** (1902–1954), tên thật **Nguyễn Hữu Kha**, là nhà văn hóa, dịch giả và cư sĩ Việt Nam, tác giả _Hán Việt tự điển_ và nhiều bộ sách về Phật giáo nổi tiếng khác.
**_Lộc Đỉnh ký 2_** (tựa tiếng Trung: 鹿鼎記2神龍教, tựa tiếng Anh: **_Royal Tramp 2_**) là một bộ phim điện ảnh võ hiệp hài cổ trang Hồng Kông năm 1992 do Vương Tinh đạo diễn, dựa
**_Lộc Đỉnh ký_** () hay **_Lộc Đỉnh Công_** là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Kim Dung, nội dung là phần tiếp theo của tiểu thuyết Bích huyết kiếm và nhân vật chính trong tiểu
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
Dưới đây là **danh sách chương trình truyền hình đã và đang được phát sóng của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh**, được chia theo kênh và trạng thái phát sóng. Danh sách
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
Dưới đây là **danh sách chương trình truyền hình đã và đang được phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam**, được chia theo kênh và trạng thái phát sóng. Danh sách này không bao
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
Bản Kinh Thánh viết tay [[tiếng La Tinh, được trưng bày ở Tu viện Malmesbury, Wiltshire, Anh. Quyển Kinh Thánh này được viết tại Bỉ vào năm 1407 CN, dùng để xướng đọc trong tu
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Duy-ma-cật sở thuyết kinh** (, , _Vimalakīrti Nirdeśa Sūtra_, ) là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Nhị thập bát tú** là một thuật ngữ trong thiên văn học phương Đông cổ đại, chỉ 28 chòm sao nằm gần hoàng đạo và xích đạo thiên cầu. Đây là một phần quan trọng
**Trang Tử** (chữ Hán: 莊子; 369—286 TCN), có tên là **Mông Lại** (蒙吏), **Mông Trang** (蒙莊) hay **Mông Tẩu** (蒙叟), là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là **Trang
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
Phật giáo **Tứ Ân Hiếu Nghĩa** (四恩孝義), tên cũ là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo **Hiếu Nghĩa**, do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là **Đức Bổn Sư**) sáng lập.
**_Lộc Đỉnh ký_** (Chữ Hán: 鹿鼎记; tiếng Anh: _The Duke of Mount Deer_) là một bộ phim truyền hình võ hiệp dài 40 tập, do TVB Hồng Kông sản xuất năm 1984. Phim có nội
**_Thiếu niên tứ đại danh bổ_** (tên tiếng Trung: 少年四大名捕, tên tiếng Anh: The Four) là bộ phim võ thuật cổ trang của Trung Quốc được sản xuất năm 2015 và công chiếu cùng năm.
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Tần Nhị Thế** **Hoàng đế** (chữ Hán: 秦二世; 230 TCN - 207 TCN), hay **Nhị Thế Hoàng đế** (二世皇帝), tên thật là **Hồ Hợi** (胡亥), _tính_ **Doanh** (嬴), _thị_ **Tần** (秦), là vị Hoàng đế
thumb|Mạnh Tử, từ cuốn _Myths and Legends of China_, 1922 của E. T. C. Werner|thế= **Mạnh Tử** (chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ; 372 TCN – 289 TCN) là triết gia Nho giáo Trung
**Đoàn Trung Còn** (1908–1988), pháp danh **Hồng Tại**, hay Tỳ kheo **Thích Hồng Tại**, là một cư sĩ Phật giáo và học giả Phật học nổi tiếng tại Việt Nam từ trước năm 1975. Ông
**_Trang Tử_**, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi **_Nam Hoa kinh_**, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN)
thumb|alt=Màn hình máy tính của hệ điều hành, màn hình hiển thị các ứng dụng phần mềm tự do khác nhau.|Ví dụ về một hệ điều hành phần mềm tự do hiện đại chạy một
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có
**Vĩnh Chương** (chữ Hán: 永璋; 15 tháng 7 năm 1735 - 26 tháng 8 năm 1760), Ái Tân Giác La, là Hoàng tử thứ 3 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. ## Tiểu sử
Mối **quan hệ ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ - Israel** được thiết lập tháng 3 năm 1949 khi Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đa số người Hồi giáo đầu tiên (trước Iran vào
**Tháp Bái** (, chữ Hán: 塔拜, 2 tháng 4 năm 1589 – 6 tháng 9 năm 1639), Ái Tân Giác La, người Mãn Châu Chính Bạch kỳ, là Hoàng tử và nhà quân sự thời
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Đa Nhĩ Cổn** (Phồn thể: 多爾袞; giản thể: 多尔衮; ; 17 tháng 11 năm 1610– 31 tháng 12 năm 1650), Ái Tân Giác La, còn gọi **Duệ Trung Thân vương** (睿忠親王), là một chính trị
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Cuộc quyết đấu giữa hổ và sư tử** hay là sự so sánh hổ (cọp) và sư tử ai mạnh hơn ai, kẻ nào mới thực sự là vua của muông thú luôn là một
Đại lão Hòa thượng **Thích Từ Nhơn** (1926-2013) là một tu sĩ Phật giáo Việt Nam thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Sư từng giữ nhiều chức vị quan trọng trong các
thumb|[[Băng đục lỗ với từ "Wikipedia" được biên mã theo ASCII. Sự xuất hiện và không xuất hiện một lỗ lần lượt tượng trưng cho 1 và 0; ví dụ, "W" được biên mã thành
**Tu viện Ljubostinja** () là một tu viện nằm ở làng Prnjavor tả ngạn sông Zapadna Morava, cách Trstenik 4 km về phía bắc. Tu viện thuộc sở hữu giáo phận Kruševac của Giáo hội Chính
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân
thumb|right|Tượng mô tả đức Phật thuyết kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em [[Kiều Trần Như tại một ngôi chùa Việt Nam tại Quebec, Canada.]] **_Kinh Chuyển pháp luân_** (chữ Hán: 轉法輪經; _Chuyển pháp
**Sư tử** (_Panthera leo_) là một trong những loài đại miêu của họ Mèo, chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này
là bộ phim hoạt hình Nhật Bản năm 2014 do đạo diễn Kobun Shizuno chỉ đạo và là phần phim điện ảnh thứ 18 dựa trên loạt phim hoạt hình và loạt truyện tranh _cùng
**Khang Hi tự điển** (Hán văn giản thể: 康熙字典; Hán văn phồn thể: 康熙字典; bính âm: Kangxi zidian) là một bộ tự điển chữ Hán có tầm ảnh hưởng lớn, do một nhóm học giả
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn