Bình Nguyên quân (chữ Hán: 平原君, ? - 251 TCN), tên thật là Triệu Thắng (趙勝), là Tướng quốc nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, ông phục vụ dưới thời Triệu Huệ Văn vương và Triệu Hiếu Thành vương, là một tông thất đức cao vọng trọng.
Một chính trị gia có tài và đầy quyền lực, ông được liệt là một trong Chiến Quốc tứ công tử, cùng với Mạnh Thường quân Điền Văn, Tín Lăng quân Ngụy Vô Kỵ và Xuân Thân quân Hoàng Yết nổi tiếng đương thời.
Thân thế
Triệu Thắng nguyên là tông thất nước Triệu, con trai thứ ba của Triệu Vũ Linh vương, vị quân chủ thứ sáu của nước Triệu, ông là em trai của Triệu Huệ Văn vương, quân chủ thứ 7 của nước Triệu. Lúc đầu, ông được phong ở thành Đông Vũ. Ông thích tân khách, nuôi tân khách trong phủ được đến mấy nghìn người.
Theo Sử ký, Bình Nguyên quân từng ba lần thôi không nhận chức Tể tướng, ba lần trở lại địa vị.
Giết mỹ nữ, lấy lòng tân khách
Bình Nguyên quân có một thiếp yêu cười nhạo một tân khách bị què. Người què tức giận đề nghị ông giết người thiếp. Bình Nguyên quân không nghe, vì vậy người què bỏ đi, những người khách khác cũng lũ lượt ra đi. Bình Nguyên quân ân hận, bèn chém đầu mỹ nhân đã cười chế nhạo người què, đoạn thân hành đến nhà người què tạ lỗi.
Sau đó, các môn hạ dần dần trở lại. và tự đâm cổ chết. Vua Triệu bèn sai sứ đến xin đầu Ngụy Tề nộp cho nước Tần. Tần Chiêu Tương vương mới thả ông về nước Triệu.
Từ đó, Bình Nguyên quân được phong làm tướng quốc.
Dùng Mao Toại, theo kế Lý Đồng
Năm 262 TCN, đất Thượng Đảng nước Hàn bị quân Tần đánh gấp sắp vỡ, nơi này bị cắt đứt đường liên hệ với nước Hàn mà chỉ còn tiếp giáp với nước Triệu. Tướng trấn thủ là Phùng Đình bèn viết thư xin mang đất này về theo nước Triệu để Triệu cứu ứng. Vua Triệu hỏi ý các đại thần, Bình Nguyên quân khuyên nên thu nạp Phùng Đình và nhận đất Thượng Đảng trong khi Bình Dương quân Triệu Báo phản đối vì sẽ gây chiến với Tần. Cuối cùng vua Triệu theo lời ông.
Vì việc nhận Thượng Đảng, nước Triệu trở thành đối tượng tấn công của nước Tần. Năm 260 TCN, nước Tần đánh cho nước Triệu đại bại ở trận Trường Bình, giết 40 vạn quân Triệu. Năm 258 TCN, nước Tần đem quân bao vây Hàm Đan, định diệt nước Triệu. Triệu Hiếu Thành vương sai Bình Nguyên quân đi sứ nước Sở, cầu cứu vua Sở đem quân giúp. Bình Nguyên quân dự định nếu vua Sở không chịu giúp thì phải uy hiếp vua Sở uống máu ăn thề, mang theo 20 người môn hạ có đủ tài văn võ để cùng đi. Trong số đó, Mao Toại là người chưa từng chứng tỏ được tài năng khiến ông còn do dự, nhưng vì Mao Toại khẩn khoản xin ra sức giúp ông nên ông chấp nhận.
Khi đến nước Sở, ông bàn chuyện hợp tung rất lâu nhưng Sở Khảo Liệt vương vẫn chưa đồng ý. Mao Toại tiến lên dùng lời lẽ phân tích lợi hại của việc bỏ hợp tung sẽ không chỉ hại nước Triệu mà còn hại cho nước Sở. Sở Khảo Liệt vương sợ hãi, vội cùng uống máu ăn thề và điều quân đi cứu Triệu. Lúc trở về nước, Bình Nguyên quân tôn Mao Toại làm thượng khách.
Tuy đã liên kết hợp tung với nước Ngụy và nước Sở, nhưng do quân cứu viện chưa tới, nên thành Hàm Đan vô cùng nguy ngập. Bình Nguyên quân rất lo lắng. Nghe lời môn khách là Lý Đồng, Triệu Thắng sung người nhà và của cải trong nhà vào việc quân, dốc sức chia sẻ khó nhọc với quân dân. Kết quả có ba nghìn người xin làm cảm tử, theo Lý Đồng xông ra vào đánh úp, buộc quân Tần phải tạm lui. Do Lý Đồng chết trận, nên Bình Nguyên quân xin phong cho người cha Đồng làm Lý Hầu nên mặc dù đã sai Tấn Bỉ đến cứu nhưng vẫn lệnh cho quân án binh bất động, rồi phái tướng Tân Viên Diễn đến Hàm Đan, nói với Bình Nguyên quân tôn vua Tần làm đế để thuyết phục nước Tần lui binh. Bình Nguyên quân không biết xử trí thế nào. Lúc đó có người học trò là Lỗ Trọng Liên đến phủ Bình Nguyên quân, thỉnh cầu tranh biện với Tân Viên Diễn. Kết quả, Lỗ Trọng Liên thuyết phục được Tân Viên và Bình Nguyên quân không tôn vua Tần làm đế nữa.
Cùng lúc đó, em vua Ngụy là Tín Lăng quân Ngụy Vô Kị trộm được binh phù, bèn dẫn quân sang cứu Triệu, đánh lui quân Tần, giải nguy cho Hàm Đan.
Sau khi đánh thắng nước Tần, Ngu Khanh lấy lý do Bình Nguyên quân cầu được Tín Lăng quân, muốn xin vua Triệu phong thêm đất cho Bình Nguyên Quân. Công Tôn Long nghe vậy đang đêm đi xe ngựa đến yết kiến Bình Nguyên Quân, khuyên ông không nên nhận. Bình Nguyên quân bèn theo lời Công Tôn Long, không đến nhận đất.
Năm 251 TCN (hay 253 TCN), Bình Nguyên quân qua đời ở nước Triệu. Con cháu ông nối dõi đời đời mãi khi Tần diệt Triệu mới hết.
Đánh giá
Sử ký Tư Mã Thiên có dòng nhận xét về Bình Nguyên quân như sau:
:"Bình Nguyên quân là một trang công tử tuyệt vời ở trong đời ô trọc. Nhưng ông ta chưa biết cái đạo lớn. Tục ngữ nói, "Lợi làm cho trí mờ". Bình Nguyên quân tham nghe lời tà thuyết của Phùng Đình, khiến cho quân Triệu bị vây hãm ở Trường Bình, bị chôn sống mất hơn bốn mươi vạn, suýt nữa mất Hàm Đan"
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng việc bại trận ở Trường Bình thực chất là do vua Triệu đổi tướng, không thể cho là lỗi của Bình Nguyên quân.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bình Nguyên quân** (chữ Hán: 平原君, ? - 251 TCN), tên thật là **Triệu Thắng** (趙勝), là Tướng quốc nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, ông phục vụ dưới thời Triệu
Cảnh tượng bình nguyên Hoa Bắc vào mùa đông **Bình nguyên Hoa Bắc** hay **đồng bằng Hoa Bắc** (, Hán Việt: Hoa Bắc bình nguyên) được tạo thành từ trầm tích của Hoàng Hà và
**Đại Bình nguyên _(, )**_, đôi khi chỉ đơn giản là _"**the Plains**"_, là một vùng rộng lớn của đồng bằng ở Bắc Mỹ. Nó nằm ở phía tây của Sông Mississippi và phía đông
**Công binh Lục quân Hoa Kỳ** (_United States Army Corps of Engineers_ hay viết tắt là **_USACE_**) là một cơ quan liên bang và là một bộ tư lệnh chính yếu của Lục quân Hoa
**Bình Nguyên Lộc** (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là **Tô Văn Tuấn**, còn gọi là **Năm Tuấn**, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ
**Nguyễn Quan Quang** (chữ Hán: 阮觀光, 1222-?), có tài liệu ghi là **Nguyễn Quán Quang** hay **Trần Quán Quang**, là một danh thần thời nhà Trần. Ông được biết nhiều với giai thoại đỗ Tam
**Lữ đoàn công binh 550** hay **Đoàn Công binh N50** tiền thân là **Lữ đoàn Công binh 25** là một Lữ đoàn công binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trụ sở của Lữ
**Nguyên Quân** (chữ Hán: 元均, 478 – 529), hay **Thác Bạt Quân** (拓跋均), tự **Thế Bình**, là hoàng thân, quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông tổ 5
**Nguyễn Quán Nho** (1638 – 1708) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Xuất thân **Nguyễn Quán Nho** là người làng Đông Triều, xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên, thuộc
**Bình Nguyên** (tiếng Anh: _Flat Island_; tiếng Filipino: _Patag_; , Hán-Việt: _Phí Tín đảo_) là một đảo cát nhỏ thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Đảo này nằm cách đảo Vĩnh Viễn
nhỏ|Hiệu kỳ của Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc là lá cờ màu đỏ trơn. **Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc** ( - **Trung Quốc Nhân dân Chí nguyện quân**), tiếng Anh gọi
**Nguyễn Quân** (sinh ngày 12 tháng 6 năm 1955) là một Tiến sĩ và chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI,
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Tiền Nguyên Quán** (, 887-941), nguyên danh **Tiền Truyền Quán** (錢傳瓘), gọi theo thụy hiệu là **Ngô Việt Văn Mục Vương**, tên tự **Minh Bảo** (明寶), là quốc vương thứ nhì của nước Ngô Việt
**Tín Lăng quân** (chữ Hán: 信陵君; ? - 243 TCN), tên thật **Ngụy Vô Kị** (魏無忌), là một công tử nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng là một
nhỏ|Bản đồ đài nguyên Bắc Cực Trong địa lý tự nhiên, **đài nguyên**, **lãnh nguyên** hay **đồng rêu** là một quần xã sinh vật trong đó sự phát triển của cây gỗ bị cản trở
**Lãnh binh Tòng** (? - ?) tên thật là **Đặng Văn Tòng**; là võ quan nhà Nguyễn, và là một chỉ huy trong phong trào kháng Pháp ở nửa sau thế kỷ 19 tại Tây
**Trung Nguyên** () là khái niệm địa lý, đề cập trung và hạ lưu Hoàng Hà mà thường là khoảng giữa Lạc Dương đến Khai Phong của **Hà Nam** bây giờ. Nó còn đề cập
[[Tập tin:Min Kingdom, 945 v2 (zh-hant).svg|phải|Bản đồ các châu nước Mân, 945 ]] thumb|Thời [[Hậu Chu|nhà Hậu Chu (951–960) ]] **Thanh Nguyên quân** (), 945—964), sau đổi là **Bình Hải quân** (平海军, 964—978) là một
**Bình Nguyên Vương** (trị vì 559—590) là quốc vương thứ 25 của Cao Câu Ly. Tên húy của ông là Dương Thành. Các sử gia tán thành rộng rãi về thời gian trị vì của
**Đoàn Nguyễn Thục** (段阮俶 1718-1775) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Khoa cử Đoàn Nguyễn Thục vốn có tên là **Đoàn Duy Tĩnh** , người làng Hải Yên,
**Sói Đại Bình nguyên Bắc Mỹ** (_Canis lupus nubilus_) là một phân loài sói xám đã tuyệt chủng. Loại sói này từng sinh sống trong khu vực trải dài khắp vùng Đại Bình nguyên Bắc
**Bình Nguyên** (tiếng Trung: 平原县, Hán Việt: _Bình Nguyên huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Đức Châu, tỉnh Sơn Đông, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thời Tam Quốc, Lưu Bị đã từng
**Bình nguyên Đông Bắc** () nằm giữa các dãy Đại Hưng An, Tiểu Hưng An và Trường Bạch tại Đông Bắc Trung Quốc. Đồng bằng mở rộng theo chiều bắc-nam là khoảng 1000 km, chiều đông-tây
nhỏ|**Bình nguyên Yucca** chiếm phần lớn diện tích khu vực trung đông của [[Vùng thử nghiệm Nevada]]**Bình nguyên Yucca** (tiếng Anh: **_Yucca Flat_**) là một sa mạc lớn, và là một trong bốn địa điểm
**Bình Nguyên** (平原省) là một tỉnh cũ tại Trung Quốc. Tỉnh được gọi tắt là "Bình" và nằm ở vùng bình nguyên Hoa Bắc. Tỉnh được thành lập vào ngày 20 tháng 8 năm 1949
**Xuân Thân quân** (chữ Hán: 春申君; ? - 238 TCN), tên thật **Hoàng Yết** (黄歇), là một trong Chiến Quốc tứ công tử nổi tiếng thời Chiến Quốc, là một khanh đại phu và là
**Quần đảo Bắc Mariana**, tên chính thức là **Thịnh vượng chung Quần đảo Bắc Mariana** (_Commonwealth of the Northern Mariana Islands_), là một lãnh thổ chưa hợp nhất và thịnh vượng chung của Hoa Kỳ
**Cầy thảo nguyên**, còn gọi là **dúi đồng cỏ** hay là **sóc chó** (tên khoa học **Cynomys**) là loài gặm nhấm ăn cỏ biết đào hang có nguồn gốc từ những đồng cỏ ở Bắc
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Bình Thủy** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam. ## Địa lý Quận Bình Thủy nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Cần Thơ, có vị trí
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Tân Bình** là một quận nội thành cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận Tân Bình nổi tiếng vì có sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Quân khu 3** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho