✨Bình Nam (chiến tranh)

Bình Nam (chiến tranh)

Bình Nam (Chữ Hán: 平南) là cuộc chiến lần thứ 8 và là cuộc chiến cuối cùng giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn trong lịch sử chia cắt Đàng Ngoài-Đàng Trong hơn 200 năm của nước Đại Việt. Trong sử sách nhà Nguyễn cuộc chiến này còn được gọi là Loạn năm Giáp Ngọ.

Bối cảnh

Từ sau cuộc giao tranh năm 1672, chúa Trịnh và chúa Nguyễn chấm dứt xung đột, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Một trăm năm sau, triều đình Đàng Trong nổ ra mâu thuẫn quyền lực trong việc kế vị và việc triều chính rơi vào tay Trương Phúc Loan. Nhân đó anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu nổi dậy chống lại họ Nguyễn, nhân danh ủng hộ Nguyễn Phúc Dương là người dòng dõi ngành trưởng bị Trương Phúc Loan gạt ra ngoài để lập Nguyễn Phúc Thuần.

Năm 1773, lực lượng quân Tây Sơn lớn mạnh, đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn và làm chủ từ Quảng Ngãi tới Bình Thuận khiến sự cai trị của chính quyền Đàng Trong bị đe dọa nghiêm trọng.

Nhận thấy nội biến ở Đàng Trong là cơ hội nam tiến để diệt họ Nguyễn, năm 1774, Trịnh Sâm ở Đàng Ngoài quyết định điều đại quân vào nam. Cuộc chiến thứ 8 và là cuộc chiến cuối cùng giữa họ Trịnh và họ Nguyễn trong lịch sử Việt Nam đã nổ ra.

Thông tin từ Đàng Trong

Sử sách nhà Nguyễn khi đề cập tới nguồn thông tin dẫn tới việc cử binh nam tiến của Trịnh Sâm cũng nêu hai thuyết khác nhau. Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Đại Nam thực lục dẫn thuyết cho rằng trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt hay biết tình hình nội biến Đàng Trong bèn cho trạm chạy văn thư về triều nói hiện trạng Thuận Hóa có thể đánh lấy được. Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều tán thành việc này. Trịnh Sâm bèn quyết chí ra quân.

Đại Nam thực lục dẫn thêm thuyết thứ hai cho rằng một người bên phía họ Nguyễn là Tôn Thất Văn, con Tôn Thất Dục oán Trương Phúc Loan lộng hành bèn ra Đàng Ngoài báo cho Trịnh Sâm tình hình Đàng Trong. Trịnh Sâm bèn ra quân đánh Nguyễn. nên họ Trịnh muốn giúp họ Nguyễn đánh quân Tây Sơn.

Lúc đó ở Đàng Trong, chúa Nguyễn chỉ còn làm chủ từ Nam Bố Chính tới Quảng Nam và vùng Nam Bộ. Nhận được thư của Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Phúc Thuần biết là không nói thật, bèn viết thư đáp lại, rồi sai Tống Hữu Trường làm thống suất đạo Lưu Đồn, Tôn Thất Hiệp làm trấn thủ Bố Chính để chống quân Trịnh.

Tháng 7 năm 1774, nghe tin báo quân Trịnh hùng mạnh, Nguyễn Phúc Thuần giao cho Tôn Thất Cảnh giữ Phú Xuân, tự mình thân chinh ra mặt trận phía bắc. Thuyền chúa Nguyễn đóng ở cửa Tư Dung, sai Trương Phúc Loan luyện quân ở núi Quy Sơn.

Tháng 9 năm 1774, quân Trịnh tiến tới địa giới Bắc Bố Chính, tướng Nguyễn là Trần Giai chạy sang đầu hàng, làm hướng đạo cho quân Trịnh. Quận Việp bèn sai Nguyễn Ngô Giao đóng trại ở Đại Đan để phô trương thanh thế. Thư ngoài ải báo gấp về cho Nguyễn Phúc Thuần. Chúa Nguyễn vội triệu Tôn Thất Nghiễm bảo vệ, rút về Phú Xuân và sai Nguyễn Cửu Dật làm đô đốc ra mặt trận phía nam chống Tây Sơn.

Tới tháng 10, quân Trịnh áp sát doanh lũy Trấn Ninh, đóng ở xã Hà Trung. Hoàng Ngũ Phúc vẫn đánh tiếng đem quân giúp chúa Nguyễn đánh Tây Sơn, nhưng thực ra đã sai người ngầm đi liên kết với các biện lại giữ biên giới của chúa Nguyễn, rồi nhân đêm đem quân lẻn qua đò sông Gianh, sáng sớm hôm sau quân sĩ đều lên bờ, đóng ở xã Cao Lao.

Trong khi Hoàng Ngũ Phúc hành quân, Trịnh Sâm cũng thân hành mang quân hậu ứng để làm thanh thế viện trợ cho quận Việp, dùng Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn Hoàn, Nguyễn Đình Huấn và Lê Quý Đôn ở lại trấn thủ kinh thành, rồi chia 4 đạo quân cho Phạm Huy Đĩnh làm tiền tướng quân, Trương Khuông làm hậu tướng quân, Nguyễn Nghiễm và Lê Đình Châu làm tả tướng quân và hữu tướng quân, còn Trịnh Sâm tự thống suất đại binh đi trung quân. Tháng 11 năm 1774, Trịnh Sâm tiến quân đến Nghệ An, đóng ở Hà Trung đến khao quân để làm cách hoãn binh.

Hoàng Ngũ Phúc sai người bí mật giao thiệp với hai người này và hỏi ý về việc đánh Phú Xuân. Kiêm Long nói: :"Đường không đi thì không đến, chuông không đánh thì không kêu" bỏ chạy.

Sau khi đánh chiếm được lũy Trấn Ninh, Hoàng Ngũ Phúc sai san phẳng lũy.

Tháng 12 năm 1774, quận Việp ra đóng quân ở Hồ Xá, truyền hịch vào Phú Xuân kể tội trạng Trương Phúc Loan lấn quyền, bưng bít người trên, và tuyên bố: :"Việc hành quân này chỉ cốt trước hết trừ khử một Phúc Loan, sau nữa tiễu trừ bọn giặc kiệt hiệt, thực không có ý gì khác cả".

Nỗ lực chống trả của chúa Nguyễn

Hoàng Ngũ Phúc bắt được Phúc Loan, lại hạ lệnh cho quân cuốn cờ, im trống, ngấm ngầm kéo đến huyện Đăng Xương, lại đưa thư cho Nguyễn Phúc Thuần đại ý nói: :"Giặc Tây Sơn chưa tiễu trừ xong, xin hội quân ở Phú Xuân để ứng tiếp".

Nguyễn Phúc Thuần tiếp thư, biết quân Trịnh kiếm cớ để không ngừng chiến, bèn sai Tôn Thất Tiệp làm thống binh quân Nguyễn, cùng quản lãnh cai đội Đặng đem quân chống cự, sai chưởng cơ Nguyễn Văn Chính đem các quân thủy, quân bộ hội ở sông Bái Đáp.

Mặt khác, chúa Nguyễn lại sai cai đội Tuyên Chính, tham mưu Thành Đức đến chỗ quận Việp trá hàng để dụ quân Trịnh; sai cai đội Phẩm Bình đi dụ các hào mục ở Quảng Bình, Bố Chính để quấy phá sau lưng quân Trịnh.

Tuy nhiên không lâu sau, ý đồ của Phẩm Bình bị lộ, Bình bị quân Trịnh bắt được. Cùng lúc đó tướng Trịnh là Nguyễn Tiến Khoan, Hoàng Phùng Cơ đánh bại Tôn Thất Hiệp, cánh quân của cai đội Đặng tự tan vỡ. Quận Việp tiến đến chiếm đóng đồn Bái Đáp.

Nguyễn Phúc Thuần bèn điều Tôn Thất Chí làm tiết chế bộ binh, Tôn Thất Doanh tiết chế thủy binh, Nguyễn Đăng Trường làm tham tán quân cơ lãnh 20 thuyền chiến ra đánh nhưng cũng bị quân Trịnh đánh bại.

Quân Trịnh tiến vào Phú Xuân

Thấy các đạo quân liên tiếp thất bại, Nguyễn Phúc Thuần gọi Tôn Thất Chí về Phú Xuân, sai Nguyễn Văn Chính điều các cánh quân thủy bộ. Chính nhận lệnh cầm quân, chém cai cơ Đặng vì tự ý lui quân để xốc lại tinh thần quân Nguyễn. Tuy nhiên khi đối lũy với quận Việp, Nguyễn Văn Chính chỉ uống rượu nói suông, không có mưu lược đánh giữ, quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân.

Nguyễn Phúc Thuần sai Tống Phúc Đạm mang hết số quân còn lại ra cửa bắc chống giữ; mặt khác chuẩn bị rút khỏi Phú Xuân đi Quảng Nam, sai các đội Tả Thủy, Trung Thủy, Tiền thủy là Nguyễn Cốc, Võ Di Nguy, Trương Phúc Dĩnh chuẩn bị thuyền; sai Nguyễn Phúc Dương đi Quảng Nam trước.

Hôm sau (29 tết - 31 tháng 1 năm 1775), Nguyễn Phúc Thuần mang gia quyến lên thuyền qua cửa Tư Dung đi Quảng Nam. Hoàng Ngũ Phúc thúc quân chiếm đóng Phú Xuân và toàn bộ vùng Thuận Hóa.

Hậu quả

Chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam. Do bị quân Trịnh và quân Tây Sơn đánh từ hai phía, Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định.

Tháng 4 năm 1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về nam.

Cuộc chiến giữa Trịnh và Nguyễn năm 1774-1775 kết thúc với thắng lợi hoàn toàn cho quân Trịnh. Lãnh thổ Đàng Ngoài lần đầu tiên được mở rộng tới tận Quảng Nam kể từ cuộc chiến Trịnh-Nguyễn nổ ra 150 năm trước và giáp với vùng đất do Tây Sơn quản lý. Chúa Nguyễn bị mất vùng căn bản Thuận - Quảng và phải co lực lượng về Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bình Nam** (Chữ Hán: 平南) là cuộc chiến lần thứ 8 và là cuộc chiến cuối cùng giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn trong lịch sử chia cắt Đàng Ngoài-Đàng Trong hơn 200 năm của
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Chiến tranh Minh-Việt** diễn ra từ năm 1407 đến khoảng những năm 1413-1414 là cuộc chiến tranh giữa dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1400–1407)** là cuộc chiến giữa nhà Hồ nước Đại Ngu và nước Chiêm Thành phía nam. Ban đầu nhà Hồ chiếm được đất đai mà tương đương với nam Quảng
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Chiến tranh Iran – Iraq**, hay còn được biết đến với những tên gọi **Chiến tranh xâm lược của Iraq** (جنگ تحمیلی, _Jang-e-tahmīlī_), **Cuộc phòng thủ thần thánh** (دفاع مقدس, _Defa-e-moghaddas_) và **Chiến tranh Cách
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Chiến tranh Trăm Năm** là cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453 nhằm giành giật lãnh thổ và ngôi vua Pháp. Hai phe chính tham gia vào
nhỏ|Những người biểu tình trong Chiến tranh Việt Nam tuần hành tại [[Lầu năm góc ở Washington, D.C. vào ngày 21 tháng 10 năm 1967.]] **Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam** là
**Chiến tranh Punic lần thứ nhất **(264-241 TCN) là cuộc chiến tranh lớn đầu tiên xảy ra giữa Carthage và Cộng hòa La Mã, kéo dài suốt 23 năm giữa hai thế lực hùng mạnh
**Chiến tranh Anh–Miến thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Burmese War_, ; ) diễn ra từ ngày 5 tháng 3 năm 1824 đến ngày 24 tháng 2 năm 1826. Cuộc chiến tranh diễn ra dưới thời
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
Một hố chôn tập thể tại cánh rừng Katyn nơi hàng nghìn sĩ quan, học giả và tù binh chiến tranh bị giết trong vụ [[Thảm sát Katyn (1940)]] **Tội ác chiến tranh gây ra
**Chiến tranh Algérie** hay còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Algérie** hoặc là **Cách mạng Algérie** ( _Ath-Thawra Al-Jazā'iriyya_; , "Chiến tranh Algérie") là một cuộc chiến tranh giữa Pháp và các
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Cơ giới hóa chiến tranh** là quá trình ứng dụng và phổ biến rộng rãi việc sử dụng máy móc trong lĩnh vực quân sự, đem đến hiệu quả vượt trội trong tác chiến và
thumb|upright=1.6|Nơi định cư của tộc Therving và Greuthungi năm 376 Giữa năm 376 và 382 **Chiến tranh Gothic** chống lại Đế quốc Đông La Mã, và đặc biệt là Trận Adrianople, thường được coi là
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
thumb|upright|Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam **Ngày Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam Quốc gia** (tiếng Anh: _National Vietnam War Veterans Day_) được tổ chức hàng năm vào ngày 29 tháng 3 tại
**Chiến tranh** (Tiếng Anh: _war_) là một mức độ xung đột vũ trang giữa các quốc gia, chính phủ, xã hội hoặc các nhóm bán quân sự như lính đánh thuê, quân nổi dậy và
**Chiến tranh Đại Việt – Lan Xang** là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là bình định vương quốc Bồn Man
Xây dựng [[Đường Quân sự Gruzia xuyên qua những vùng lãnh thổ tranh cãi là một yếu tố chủ chốt trong thắng lợi cuối cùng của Nga]] _Những người dân miền núi rời [[aul_, của