✨Bia Vĩnh Lăng

Bia Vĩnh Lăng

nhỏ|Phiên bản bia Vĩnh Lăng lưu trữ ở [[Hà Nội.]] Bia Vĩnh Lăng còn gọi là Lam Sơn Vĩnh Lăng bi (chữ Hán: 藍山永陵碑) là một bia đá cổ thời Lê sơ, đặt ở lăng vua Lê Thái Tổ, tại xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Bia Vĩnh Lăng vừa có giá trị sử liệu, vừa là tác phẩm nghệ thuật văn hóa trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.

Vị trí

Bia Vĩnh Văng là một phần quan trọng của lăng mộ Lê Thái Tổ, nằm ở phía tây nam, cách khu lăng mộ khoảng 300m, liền kề với hồ Tây. Bia được đặt trên một gò đất cao thoai thoải hướng về phía nam, cao 2,79m, rộng 1,94m, dày 0,27m. Năm 1961, một tòa phương đình bia được xây lên che cho bia với mục đích hạn chế ảnh hưởng của khí hậu đối với bia.

Đặc điểm

Bia đá hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt, chính giữa có biểu tượng trời/đất (hình vuông, trong tròn), ở chính giữa khắc nổi hình rồng cuộn, uốn khúc quanh mặt Trời với ý nghĩa thiên tử (con trời) là do sự giao hòa của trời đất tạo nên. Hai bên là hình rồng chầu với thân dài uốn khúc cùng văn mây nước. Diềm bia được trang trí (từ trên xuống), 9 hình rồng trang trí tinh xảo bố cục trong 1/2 lá đề, đan xen hoa cúc dây mang phong cách nghệ thuật thời Lý - Trần. Theo nghiên cứu, bên cạnh hình ảnh con rồng truyền thống, thì hình rồng ở giữa trán bia Vĩnh Lăng lại mang ảnh hưởng của rồng phương Bắc(phong cách rồng yên ngựa ảnh hưởng từ thời Minh) rất rõ nét: mắt nhìn thẳng với vẻ dữ tợn, thân mình vặn khúc, mang một dáng đe dọa. Được bố cục gọn gàng trong một bố cục hình tròn, hình tròn đấy lại nằm gọn trong một hình vuông.

Văn bia viết trên một mặt, trán bia viết chữ kiểu triện, bài văn trên thân bia gồm 25 cột chữ viết chân. Cũng theo lệ thường, văn bia có lối viết sang cột giữa chừng và viết "đài lên" một hàng các chữ như "Thái, Đế, Tằng, Hoàng, Sắc"… để tỏ ý kính trọng nhà vua và vương quyền. Căn cứ nội dung khắc trên bia thì tác giả văn bia là Nguyễn Trãi, soạn thảo vào niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433) ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà và được táng ở Vĩnh Lăng. Nội dung bia ngắn gọn, súc tích, thuật lại thân thế sự nghiệp của vua Lê Thái tổ, quá trình khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đánh tan quân Minh, xây dựng lại quốc gia Đại Việt.

Nội dung

Bản dịch dưới đây do tác giả là Nguyễn Hữu Trung dịch dựa vào photo của bản rập tấm bia này tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội. :Kính viết :Ngày 22 tháng Tám nhuận năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433) Thái tổ Cao Hoàng đế về chầu trời. Ngày 23 tháng 10 năm này được táng ở Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Vua họ Lê, tên húy bên trái là "Hòa", bên phải là "Đao" (tức chữ Lợi). Cụ nội tên bên trái là "Ngôn", phải là "Mỗi" (tức chữ Hối). Có một hôm cụ đi qua Lam Sơn, trông thấy một đàn chim bay lượn quanh dưới chân Lam Sơn, trông giống như đám đông người đang tụ họp, do vậy biết đây là vùng đất tốt. Nhân đó Cụ bèn về nhà đưa cả gia đình đến an cư ở đấy. Được 3 năm thì gây dựng nên sản nghiệp, con cháu ngày càng đông đúc, tôi tớ trong nhà ngày một nhiều khai khẩn đất đai, xây dựng cơ đồ ngày càng phồn thịnh ở đấy. Bởi có thế lực nên được phong làm tù trưởng đứng đầu ở một phương. Ông nội Vua tên húy trái là "Điền", phải là "Đinh" (tức chữ Đinh) thừa tự gia nghiệp, kế thừa chí tổ tiên gây dựng cơ ngơi đông hơn ngàn người. Bà nội Vua họ Nguyễn, là người rất đức hạnh, hiền thục sinh được hai con trai: con trưởng là Tòng; con thứ tên bên trái là "Nhật", bên phải là "Quảng" (tức chữ Khoáng) tức là thân sinh của Vua vậy. Ông là người vui tính, thảo hiền, phúc đức, thích làm điều lạc thiện, hay nuôi dưỡng tân khách trong nhà. Dân ở vùng lân cận được coi như một nhà cho nên không ai lại không cảm cái ân đức và phục cái nghĩa khí ấy vậy. Mẹ của Vua họ Trịnh, tên húy trên là "Thảo", dưới là "Thương" (tức chữ Thương) là người chuyên cần việc nữ công khuê phòng, sinh được ba con trai: Con đầu là Học; con giữa là Trừ; con cuối tức là Vua ta vậy. Con đầu kế thừa sự nghiệp ông cha, không may đoản mệnh. Nhà Vua kế thừa sự nghiệp của ông cha rất cẩn trọng. Tuy gặp thời đại loạn mà ý chí vẫn kiên cường, ẩn giấu tông tích trong rừng núi, lấy cày bừa, cấy lúa mà lập nghiệp. Do căm phẫn quân giặc tàn bạo ức hiếp nên càng chuyên tâm vào đọc sách thao lược, đem hết gia tư trong nhà để hậu đãi tân khách. :Năm Mậu Tuất (1418) khởi nghĩa dấy binh ở đồn Lạc Thủy. Trước sau đánh hơn 10 trận đều dùng quân mai phục, xuất kỳ bất ý, tránh chỗ mạnh đánh vào chỗ yếu, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh. Năm Bính Ngọ (1426) đánh trận Tốt Động thắng lớn, bèn tiến về bao vây Đông Đô. Năm Đinh Mùi (1427) viện binh của giặc do An Viễn hầu Liễu Thăng dẫn 10 vạn quân từ Quảng Tây tiến sang; Kiềm Quốc công Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân từ Vân Nam tiến vào. Một trận chiến diễn ra ở Chi Lăng: Liễu Thăng bị mất đầu; chém bọn giặc vài vạn thủ cấp; bắt sống bọn tướng giặc Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn 300 tên; quân dưới trướng hơn 3 vạn tên. Liền đem sắc mệnh, binh phù của Liễu Thăng cho quân Vân Nam xem. Mộc Thạnh nhìn thấy hết thảy bọn chúng đều tiêu đởm, tan tác, bị chém chết và bắt sống không thể kể xiết. Lúc đó bọn trấn thủ thành Đông Quan là Thành Sơn hầu Vương Thông vốn trước đã cùng quân ta giảng hòa nhưng chưa xong, đến lúc này mới xin được minh thề ở trên sông Nhị Hà. Các xứ thành trì trấn thủ đều mở cửa ra hàng. Phàm những quân giặc bị bắt cho đến các thành ra hàng cả thảy hơn 10 vạn tên đều được phóng thích. Đường thủy cấp cho hơn 500 chiếc thuyền, đường bộ cấp cho lương thảo, ngựa tốt. Răn giới cho quân sĩ không được mảy may xâm phạm. Hai nước từ đó thông hảo, Bắc Nam yên ổn. Xứ Mường Lễ, Ai Lao đều nhập vào bản đồ nước ta. Các nước Chiêm Thành, Xà Bà đều cho tàu thuyền sang cống nạp. :Vua thức khuya dậy sớm, trong 6 năm trong nước bình yên cho đến khi băng hà. :Ngày tốt tháng 10 năm Quý Sửu, Thuận Thiên thứ 6 (1433). Vinh Lộc Đại phu Nhập nội hành khiển Tri tam quán sự, thần là Nguyễn Trãi phụng soạn. Hàn lâm viện đãi chế, thần là Vũ Văn Phỉ phụng viết.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Phiên bản bia Vĩnh Lăng lưu trữ ở [[Hà Nội.]] **Bia Vĩnh Lăng** còn gọi là **Lam Sơn Vĩnh Lăng bi** (chữ Hán: 藍山永陵碑) là một bia đá cổ thời Lê sơ, đặt ở lăng
nhỏ|phải|Bia đá mạ vàng trên bảo tháp [[Thích Ca Phật Đài ở Thiền Lâm Tự, Bà Rịa-Vũng Tàu]] **Bia** (_chữ Hán_:碑; phiên âm: "_bi_") là vật tạo tác dạng phiến dẹp có mặt phẳng thường
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
Bia Thoại Sơn dựng năm [[1822]] **Bia Thoại Sơn** là một trong ba bia ký nổi tiếng , được làm dưới chế độ phong kiến Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay. Hiện bia
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
Tiểu đình ở giữa sân lăng **Lăng Thoại Ngọc Hầu** còn gọi là **Sơn Lăng**, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là một
|header1 = || |labelstyle = padding-right:0.3em; |rowclass2 = mergedrow |label2 = Phân cấp |data2 = Di tích cấp quốc gia |rowclass3 = mergedrow |label3 = Vị trí |data3 = Phường 4, thành phố Vĩnh
**Vinh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nghệ An và là Trung tâm Kinh tế - Văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Hiện nay, địa danh "Vinh" không còn tồn
**Mộ Họ Ngọ** (còn gọi là **Linh Quang Từ, Ngọ tướng công chi mộ**), di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, được công nhận theo Quyết định số 29/QĐ-BHV ngày 13 tháng 1
**Thanh Hóa** là tỉnh ven biển cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Thanh Hóa. Thanh Hóa là 1 trong những trung tâm của
**Bia Võ Cạnh** là tấm bia cổ nhất được tìm thấy của Vương quốc Chăm Pa và một trong những tấm bia cổ nhất Đông Nam Á. Tấm bia được Thủ tướng Chính phủ công
**Lăng đá Quận Vân** là một cụm công trình kiến trúc khu lăng mộ Đô đốc Đại giang Quận công Đỗ Bá Phẩm, được xây dựng từ năm 1733 tại thôn Nỏ Bạn, xã Vân
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
Hình vẽ đoàn tùy tùng, trên tranh tường trong mộ [[Lý Hiền (Nhà Đường)|Lý Hiền, niên đại 706; mỗi hình có chiều cao xấp xỉ .]] **Càn lăng** () là một công trình kiến trúc
**Trà Vinh** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp
**Vịnh Hạ Long** là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng
**Láng** là một làng cổ nằm bên sông Tô Lịch đoạn từ ô Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở thành phố Hà Nội. Làng Láng là tên nôm của xã Yên Lãng thuộc huyện Vĩnh
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
phải|Biên lai bia Alulu – một biên lai chứng nhận việc mua bia "tốt nhất" vào năm 2050 TCN từ thành phố cổ [[Ur của người Sumer, Iraq cổ đại.]] **Bia** là một trong những
## Đặc điểm Bàn về hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một hệ thống khá đơn giản với vài
phải|Cổng làng Thổ Hà, Bắc Giang **Cổng làng** là một loại công trình kiến trúc có tính cách phòng thủ nhưng sang thời hiện đại thì phần lớn nặng phần tượng trưng với giá trị
**Tyskie** () là một nhãn hàng Bia (thức uống) của Ba Lan. Tên gọi của loại bia này xuất phát từ Nhà máy bia ở thị trấn Tychy thuộc Upper Silesia. Được sản xuất bởi
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
nhỏ|phải|Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh **Lăng mộ** (hay còn gọi là **lăng tẩm**, **lăng**) là một công trình kiến trúc ngoài trời được xây dựng bao quanh nơi chôn cất người chết. Một di
nhỏ|Toàn cảnh Minh Dụ Lăng **Dụ Lăng** (裕陵) là nơi an táng Minh Anh Tông – Hoàng đế thứ sáu của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Vị trí Tư lăng nằm ở
Lăng Chiêu Nghi là lăng mộ của Từ Mẫn Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ (1716-1750), phi tần của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765, vị chúa thứ 8 trong 9 đời Chúa Nguyễn).
phải|nhỏ|Phiên bản bia Vĩnh phúc ở Lam Kinh, [[Thanh Hóa, dựng lại ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội]] **Khu di tích lịch sử Lam Kinh** cách thành phố Thanh Hóa 50 km về
**Chùa Vĩnh Nghiêm**, còn được gọi là chùa **Đức La**, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Chùa được công nhận
nhỏ|phải|Kinh Vĩnh Tế và vùng biên giới với [[Campuchia|Cao Miên của 2 tỉnh Hà Tiên, An Giang thời nhà Nguyễn độc lập và thời Pháp xâm lược Nam Kỳ.]]**Kênh Vĩnh Tế** là một con kênh
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
Một trong những nữ sĩ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương (1772–1822) sinh tại Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, được nhà thơ Xuân Diệu ưu ái gọi là
Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm bên chân núi mặt nhìn ra con đường, lưng quay về vách đá, tọa lạc trên thềm cao với 9 bậc thang xây bằng đá ong.Thoại Ngọc Hầu tên thật
Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm bên chân núi mặt nhìn ra con đường, lưng quay về vách đá, tọa lạc trên thềm cao với 9 bậc thang xây bằng đá ong.Thoại Ngọc Hầu tên thật
Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm bên chân núi mặt nhìn ra con đường, lưng quay về vách đá, tọa lạc trên thềm cao với 9 bậc thang xây bằng đá ong.Thoại Ngọc Hầu tên thật
**Huỳnh Minh Hưng**, thường được biết đến với nghệ danh **Đàm Vĩnh Hưng** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1971), là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh bắt đầu được công chúng biết
Dãy núi Cai Kinh phía tây và cánh đồng Chi Lăng **Chi Lăng** (支棱) là một cửa ải nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây vốn là một thung lũng có sông Thương
**Lương Thế Vinh** (chữ Hán: 梁世榮; 17 tháng 8 năm 1441 – 2 tháng 10 năm 1496, tên hiệu là **Thụy Hiên**) là một nhà toán học, nhà thơ và học giả người Việt Nam.
**Tô Vĩnh Diện** (1924 – 1954) là một chiến sĩ thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam được trao tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nổi tiếng với hành động lấy chính
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Võ Đại Lang** hay **Vũ Đại Lang** (tiếng Trung: 武大郎), là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc _Thủy hử_ của Thi Nại Am và trong _Kim Bình Mai_ của
**Cụm di tích Đình – Chùa – Bia Bà La Khê** là di tích văn hóa ở làng La Khê, Phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Cụm di tích này bao
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
thumb|Toàn cảnh Hàn Lâm viện thời [[Khang Hi.]] :_Bài viết này nói về một cơ quan trong nhà nước phong kiến Á Đông thời xưa. Để tìm hiểu về các cơ quan học thuật nghiên
**Đặng Sĩ Vinh** (1685 - 1770) đỗ Hoành từ, làm quan đến chức Tri phủ sau đó là Đô ngự sử đứng đầu Ngự sử đài, được phong tước Thiếu bảo, Liêu quận công. ##
**Vĩnh Long** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Vĩnh Long nằm bên bờ sông Cổ Chiên, một nhánh của sông Tiền, cách Thành phố
**Trần Vĩnh Hoa** (, 1634 - 1680), tự Phục Phủ, tương truyền còn có tên là **Trần Cận Nam** (陳近南), người huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu (nay là trấn Giác Mỹ, quận Long Hải,
**Quan Vịnh Hà** (tiếng Trung: 關詠荷, tiếng Anh: Esther Kwan Wing-Hoh; sinh ngày 16 tháng 7 năm 1964) là một nữ diễn viên người Hồng Kông. Cô từng là gương mặt nổi bật và diễn
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,