Vương Xử Tồn (, 831–895) là một tướng lĩnh cuối thời nhà Đường, cai quản Nghĩa Vũ quân. Ông là một trong các tướng lĩnh có đóng góp nhiều nhất trong chiến dịch trấn áp cuộc nổi dậy của Hoàng Sào.
Thân thế
Vương Xử Tồn sinh năm 831, tức dưới triều đại của Đường Văn Tông. Ông là người lý Thắng Nghiệp, huyện Vạn Niên, Trường An, tổ tiên của ông từng làm sĩ quan trong Thần Sách quân trong nhiều thế hệ. Cha của ông là Vương Tông (王宗) không những là một tướng cao cấp trong Thần Sách quân, mà còn là một thương nhân tài giỏi. Theo ghi chép, Vương Tông trở nên giàu có đến nỗi có thể phung phí lương thực và có rất nhiều nô bộc. Vương Tông từng đảm nhiệm các chức vụ Kiểm hiệu tư không, Kim ngô đại tướng quân, Tả nhai sứ, Diêu Lĩnh và Hưng Nguyên tiết độ sứ. Bản thân Vương Xử Tồn bắt đầu sự nghiệp với chức hữu quân trấn sứ, sau từng thăng làm kiêu vệ tướng quân và tả quân tuần sứ. Sau đó, ông được bổ nhiệm giữ chức Định châu chế trí sứ, châu này khi đó là thủ phủ của Nghĩa Vũ quân. Năm 879, Vương Xử Tồn được bổ nhiệm giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ.
Chống Hoàng Sào
Khoảng tết năm 881, quân nổi dậy của Hoàng Sào công chiếm kinh sư Trường An và xưng là hoàng đế Đại Tề, Đường Hy Tông chạy hướng đến Thành Đô. Khi hay tin Trường An thất thủ, Vương Xử Tồn quyết định suất quân tiến về Trường An tiếp viện cho triều đình ngay từ trước khi Đường Hy Tông truyền lệnh, ông cũng phái 2.000 lính đến Hưng Nguyên để hộ giá Hoàng đế. Vương Xử Tồn liên kết với Hà Trung tiết độ sứ Vương Trọng Vinh; họ suất quân tiến về phía Trường An, lập trại ở bờ bắc sông Vị.
Vào mùa hè năm 881, một số tướng Đường hợp binh gần Trường An để chuẩn bị tái chiếm thành, trong đó, ngoài Vương Xử Tồn và Vương Trọng Vinh, còn có Đường Hoằng Phu (唐弘夫), Trình Tông Sở (程宗楚), Thác Bạt Tư Cung, và Trịnh Điền. Lo sợ trước liên quân Đường, Hoàng Sào từ bỏ Trường An và chạy trốn; trong khi đó cư dân Trường An cố gắng hỗ trợ quân Đường bắt cách ném gạch đá vào quân Tề. Trình Tông Sở, Vương Xử Tồn và Đường Hoằng Phu tiến vào thành để tán dương các cư dân. Tuy nhiên, thay vì úy lạo dân chúng, các binh lính lại cướp bóc kinh thành, sa lầy với số tài sản cướp được. Quân Tề biết được điều này và tiến hành phản công, và sau các trận chiến trên đường phố, quân Đường bị đè bẹp. Trình Tông Sở và Đường Hoằng Phu bị giết, còn Vương Xử Tồn chỉ có thể thoát thân. Quân Tề tái chiếm Trường An và đồ sát cư dân vì họ đã trợ giúp cho quân Đường trong lúc giao tranh. Một thời gian sau đó, quân Đường không thể tiến hành một cuộc tiến công khác nhằm tái chiếm Trường An.
Năm 883, Lý Khắc Dụng tiến quân đến vùng phụ cận Trường An, liên quân Đường lại tiến công và chiếm được thành. Hoàng Sào chạy trốn về phía đông, và cuối cùng bị giết vào năm 884. Chư đạo hành doanh đô thống Vương Đạc sau đó vinh danh các tướng lĩnh lập công lao trong chiến dịch, Vương Xử Tồn được vinh danh đứng thứ nhất trong việc "cần vương cử nghĩa". tiết độ sứ, ông ta sau đó dùng Hà Đông làm căn cứ để tiếp tục khuếch trương thế lực. tiết độ sứ Vương Dung và Lô Long tiết độ sứ Lý Khả Cử lại lo sợ Lý Khắc Dụng, do đó họ quyết định tiến công Vương Xử Tồn rồi chia nhau Nghĩa Vũ. Vào mùa xuân năm 885, họ phát động tiến công, và thuyết phục Đại Đồng tiết độ sứ Hách Liên Đạc tiến công Lý Khắc Dụng để ngăn không cho quân Hà Đông cứu viện Vương Xử Tồn., chuyển Thái Ninh tiết độ sứ Tề Khắc Nhượng chuyển đến Nghĩa Vũ, và chuyển Vương Xử Tồn chuyển đến Hà Trung. Vương Xử Tồn phản đối, nói rằng mình vừa mới đẩy lui cuộc tiến công của quân Lô Long/Thành Đức và không thể rời khỏi Nghĩa Vũ lúc này, và để giúp đỡ cho Vương Trọng Vinh, ông nói rằng Vương Trọng Vinh từng lập được đại công trong việc trấn áp Hoàng Sào và không nên dễ dàng bị thuyên chuyển. Điền Lệnh Tư bỏ qua phản đối của Vương Xử Tồn, lệnh cho ông phải đến Hà Trung. Vương Xử Tồn đến Tấn châu, song sau đó phải đối mặt với kháng cự từ phía thuộc hạ của Vương Tọng Vinh là Tấn châu thứ sử Ký Quân Vũ (冀君武), do đó ông trở lại Nghĩa Vũ.
Năm 895, Vương Xử Tồn qua đời, binh lính ủng hộ con trai ông là Vương Cáo kế nhiệm. Đường Chiêu Tông truy thụy cho ông là Trung Túc.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Xử Tồn** (, 831–895) là một tướng lĩnh cuối thời nhà Đường, cai quản Nghĩa Vũ quân. Ông là một trong các tướng lĩnh có đóng góp nhiều nhất trong chiến dịch trấn áp
**William, Thân vương xứ Wales** (William Arthur Philip Louis; sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1982) là một thành viên của Vương thất Anh. William là trưởng nam của Charles III, Quốc vương của
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
**Louis Henri Joseph de Bourbon** (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis
**Edward của Westminster**, hay còn gọi là **Edward của Lancaster** (13 tháng 10 năm 1453 – 4 tháng 5 năm 1471) là Thân vương xứ Wales, Công tước xứ Cornwall. Ông là người con đầu
**Vương Xử Trực** (, 862-922), tên tự **Doãn Minh** (允明), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và đầu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ từ
nhỏ|alt=Balcony snap|Hai vợ chồng mới cưới là [[William, Thân vương xứ Wales|Vương tôn William, Công tước xứ Cambridge và Kate, Công tước phu nhân xứ Cambridge trên ban công của điện Buckingham. Bên trái là
**Vương tôn Louis xứ Wales** (**Louis Arthur Charles)**; sinh vào ngày 23 tháng 4 năm 2018) là con nhỏ nhất và cũng là con trai út của William, Thân vương xứ Wales và Catherine, Vương
**Công tước xứ Cambridge** (), hay **Công tước Cambridge**, là một tước hiệu quý tộc hiện tại của Vương thất Anh, được đặt theo tên của thành phố Cambeidge, nước Anh. Tước hiệu này thường
**Công tước xứ Rothesay** (; tiếng Gael Scotland: _Diùc Baile Bhòid;_ tiếng Scotland: _Duik o Rothesay_) là tước hiệu triều đại được sử dụng bởi người thừa kế ngai vàng Anh, hiện là William, Thân
**Louis Henri, Công tước xứ Bourbon** (_Louis Henri Joseph_; 18 tháng 8 năm 1692 – 27 tháng 1 năm 1740), là một quý tộc và nhà chính trị gia người Pháp, từng giữ chức Tể
**Johann I Joseph**' (Tiếng Đức: _Johann Baptist Josef Adam Johann Nepomuk Aloys Franz de Paula_; 26 tháng 6 năm 1760 – 20 tháng 4 năm 1836) là Thân vương đời thứ 11 của xứ Liechtenstein,
**Johann II xứ Leichtenstein** (_Johann Maria Franz Placidus_; 5 tháng 10 năm 1840 - 11 tháng 2 năm 1929), biệt danh là **Johann Người tốt** (tiếng Đức: _Johann II. Der Gute_), là Thân vương xứ
**Louis I de Bourbon, Thân vương xứ Condé** (7 tháng 5 năm 1530 – 13 tháng 3 năm 1569) là một nhà lãnh đạo và tướng quân nổi tiếng của Kháng cách Pháp (Huguenot), người
**Vương Cảnh Sùng** (chữ Hán: 王景崇, bính âm: Wang Jingchong, 847 - 883), thụy hiệu **Thường Sơn Trung Mục vương** (常山忠穆王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới triều đại nhà Đường trong lịch sử
nhỏ|phải|Họa phẩm về Nữ vương Sheba **Nữ vương của Sheba** là một nhân vật trong Kinh Thánh. Câu chuyện về lần gặp gỡ của bà với vua Solomon đã trải qua quá trình mở rộng
**Vương tôn Arthur xứ Connaught** (_Arthur Frederick Patrick Albert_; 13 tháng 1 năm 1883 – 12 tháng 9 năm 1938) là một thành viên của Vương Thất Anh và là sĩ quan quân đội Anh.
**Charlotte Augusta xứ Wales** (7 tháng 1 năm 1796 – 6 tháng 11 năm 1817) là hậu duệ duy nhất của George IV của Liên hiệp Anh (bấy giờ là Thân vương xứ Wales) và
**Mary xứ Teck **(26 tháng 5 năm 1867 – 24 tháng 3 năm 1953) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và là Hoàng hậu Ấn
**Vương tôn Albert Victor, Công tước xứ Clarence và Avondale** (Albert Victor Christian Edward; 8 tháng 1 năm 1864 – 14 tháng 1 năm 1892) là con trai trưởng của Thân vương và Vương phi
thumb|phải|[[Sophia Dorothea của Đại Anh|Princess Sophia Dorothea, con gái duy nhất của George I của Anh, là _British princess_ đầu tiên.]] **Vương nữ Anh, Vương nữ Liên hiệp Anh, Công chúa Anh**, **Công nương Anh**
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Anna Scott, Công tước thứ 1 xứ Buccleuch** cũng gọi là **Anne Scott** (11 tháng 2 năm 1651 – 6 tháng 2 năm 1732) là một Nữ Công tước người Scotland giàu có. Sau khi
**Maud Duff, Bá tước phu nhân xứ Southesk** (khi sinh là **Công nữ Maud Duff**; 3 tháng 4 năm 1893 – 14 tháng 12 năm 1945), được gọi là **Vương tôn nữ Maud** từ năm
**Vương tôn Gustaf Adolf Oscar Fredrik Arthur Edmund, Công tước xứ Västerbotten** (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1906, tại Stockholm – mất ngày 26 tháng 01 năm 1947, tại Kastrup Airfield, Copenhagen, Đan Mạch)
**Vương tôn George xứ Wales** (**George Alexander Louis**; sinh ngày 22 tháng 7 năm 2013) là người con lớn nhất và cũng là con trai cả của William, Thân vương xứ Wales và Catherine, Vương
**Vương tử Henry, Công tước xứ Gloucester** (Henry William Frederick Albert; sinh ngày 31 tháng 3 năm 1900 – 10 tháng 6 năm 1974) là người con thứ 4 và là con trai thứ 3
thumb|[[George II của Anh|Prince George Augustus, con trai duy nhất của George I của Anh, là _British prince_ đầu tiên.]] **Vương tử Anh**, **Vương tôn Anh**, **Vương công Anh** hoặc **Công thân Anh**, đôi khi
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
nhỏ|Ngai vàng trong [[Thượng Nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland]] Quốc vương hiện tại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland là Charles Đệ tam. Dưới đây là **Danh
**Vương tôn nữ Charlotte xứ Wales** (**Charlotte Elizabeth Diana)** ; sinh vào ngày 2 tháng 5 năm 2015) là người con thứ hai và cũng là con gái duy nhất của William, Thân vương xứ
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch** **, Công tước xứ Edinburgh** (sau gọi là **Philip Mountbatten**; 10 tháng 6 năm 1921 – 9 tháng 4 năm 2021) là chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Vương tử George, Công tước xứ Kent** (**George Edward Alexander Edmund**; 20 tháng 12 năm 1902 – 25 tháng 8 năm 1942) là người con thứ 5 và là con trai thứ 4 của vua
**Vương tằng tôn nữ Sophia xứ Gloucester** (Sophia Matilda; 29 tháng 5 năm 1773 – 29 tháng 11 năm 1844) là cháu chắt của George II của Đại Anh và là cháu gái gọi bác
**Mary của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất** (Victoria Alexandra Alice Mary; 25 tháng 4 năm 1897 – 28 tháng 3 năm 1965) là một thành viên của vương thất Anh. Bà là người
**Vương tôn nữ Lilibet xứ Sussex** (Lilibet Diana; sinh ngày 4 tháng 6 năm 2021) là con gái của Vương tử Harry, Công tước xứ Sussex và Meghan Markle. Cô bé là cháu thứ 5
**Nhà Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Casa de Bragança_; tiếng Anh: _House of Braganza_) là một hoàng tộc sản sinh ra các hoàng đế, thân vương và công tước gốc Bồ Đào Nha trị vì
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Diana Spencer, Thân vương phi xứ Wales** (Diana Frances Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997), báo chí Việt Nam thường gọi là **Công nương** thay vì là **Vương phi**,
**Trưởng Tôn Vô Kị** (chữ Hán: 長孫無忌; 594 - 659), biểu tự **Phù Cơ** (辅机), là đại công thần trong triều đại nhà Đường trải qua ba đời Hoàng đế nhà Đường, từ Đường Cao
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
**Vương tôn Edward, Công tước xứ Kent**, KG, GCMG, GCVO (Edward George Nicholas Paul Patrick, sinh ngày 09 Tháng 10 năm 1935) là một thành viên của Vương thất Anh, đồng thời là em họ
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ: