Vương Xử Trực (, 862-922), tên tự Doãn Minh (允明), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và đầu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ từ năm 900, đến năm 910 thì ly khai triều Hậu Lương, và đến năm 921 thì bị con nuôi là Vương Đô lật đổ.
Thân thế
Vương Xử Trực sinh năm 862, dưới triều đại của Đường Ý Tông. Ông là người Vạn Niên, Kinh Triệu, và tổ tiên của ông từng nhiều đời làm các sĩ quan trong Thần Sách quân, là một phú tộc ở kinh sư. Cha ông là Vương Tông (王宗), từng giữ chức kiểm hiệu tư không, kim ngô đại tướng quân, tả nhai sứ, tiết độ sứ tại Diêu Lĩnh và Hưng Nguyên. Vương Tông đồng thời cũng hoạt động mậu dịch và trở nên giàu có, theo ghi chép thì ông có thể phung phí lương thực và có cả vạn nô bộc. Vương Xử Trực có lẽ theo anh là Vương Xử Tồn đến Nghĩa Vũ quân khi Vương Xử Tồn được Đường Hy Tông bổ nhiệm giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ vào năm 879, và trở thành một sĩ quan tại đây.
Vương Xử Trực là người ưa thích pháp thuật, ông trở nên thân thiết với phương sĩ Lý Ứng Chi (李應之). Lý Ứng Chi kiếm được một cậu bé tên là Lưu Vân Lang đến từ Hình Ấp và nhận làm con của mình, song vì thấy Vương Xử Trực lúc này vẫn chưa có con trai nên Lý Ứng Chi giao cậu bé cho Vương Xử Trực, Vương Xử Trực nhận nuôi cậu bé và cải danh thành Vương Đô. Mặc dù sau đó Vương Xử Trực có một con tên là Vương Úc (王郁) với một tiểu thiếp, song người ông yêu mến là Vương Đô.
Giao chiến với Chu Toàn Trung
Năm 900, bộ tướng của Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung là Trương Tồn Kính (張存敬) đem quân tiến đánh Nghĩa Vũ. Con và người kế nhiệm của Vương Xử Tồn là Vương Cáo đang cai quản Nghĩa Vũ, Vương Cáo khiển Hậu viện đô tri binh mã sứ Vương Xử Trực đem vài vạn binh lính chống cự lại quân của Trương Tồn Kính. Vương Xử Trực đề xuất không giao chiến ngay lập tức với quân Tuyên Vũ, mà nên khiến cho quân Tuyên Vũ mệt mỏi trước rồi mới giao chiến sau, tuy nhiên Vương Cáo lại không nghe theo ý của thúc phụ. Vương Cáo theo ý của quan khổng mục Lương Vấn (梁汶) và lệnh cho Vương Xử Trực phải lập tức giao chiến. Trương Tồn Kính đánh bại Vương Xử Trực, quân Nghĩa Vũ tổn thất nặng nề, song Vương Xử Trực chạy thoát được về thủ phủ Định châu của Nghĩa Vũ. Vương Cáo hoảng sợ và bỏ chạy đến lãnh địa của Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng- đồng minh của Nghĩa Vũ. (Vốn đã khó chịu trước việc cha không yêu mến mình, Vương Úc cũng quyết định chạy đến Hà Đông và sau đó kết hôn với một con gái của Lý Khắc Dụng.) và phong cho ông tước hiệu Bắc Bình vương. láng giềng của Triệu vương Vương Dung từ chối nộp tô thuế cho triều đình như lúc trước, song thường xuyên nộp cống cho Hậu Lương Thái Tổ. Mặc dù vậy, Hậu Lương Thái Tổ cho rằng cuối cùng thì họ sẽ quay sang làm phản nên dự tính dùng vũ lực để đưa hai quân này nằm dưới quyền cai quản trực tiếp của mình.
Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ khiển Đỗ Đình Ẩn (杜廷隱) và Đinh Diên Huy (丁延徽) dùng phương thức gian trá mà chiếm được Thâm châu (深州) và Ký châu (冀州 của Vũ Thuận, sau đó chuẩn bị khiển bộ tướng Vương Cảnh Nhân tiến công Trấn châu (鎮州)- thủ phủ của Vũ Thuận. Đáp lại, Vương Dung cắt đứt quan hệ với Hậu Lương (trở thành quân chủ nước Triệu) và cầu viện con- người kế nhiệm của Lý Khắc Dụng là Tấn vương Lý Tồn Úc, cũng như Lô Long tiết độ sứ là Yên vương Lưu Thủ Quang. Biết rằng nếu Triệu bị diệt thì Nghĩa Vũ sẽ là mục tiêu kế tiếp, Vương Xử Trực cũng khiển một sứ giả đến Thái Nguyên, bày tỏ việc ủng hộ Lý Tồn Úc làm lãnh đạo chung. trong một thời gian ngắn, song vì lo ngại sẽ bị Lưu Thủ Quang tiến công từ phía sau, Lý Tồn Úc lại dẫn quân về Triệu.
Cai trị độc lập
Lưu Nhân Cung hay tin Hậu Lương thua trận thì quay sang tính đến việc xưng đế, ông ta phái sứ giả đến chỗ Vương Dung và Vương Xử Trực, đề xuất họ suy tôn ông ta là Thượng phụ. Khi Vương Dung báo tin này cho Lý Tồn Úc, Lý Tồn Úc cho rằng thực hiện việc này sẽ càng khiến cho Lưu Thủ Quang thêm kiêu ngạo và tự diệt vong, vì thế Lý Tồn Úc cùng với Vương Dung, Vương Xử Trực và ba tiết độ sứ khác dưới quyền Lý Tồn Úc cùng suy tôn Lưu Thủ Quang là Thượng phụ, Lưu Thủ Quang sau đó xưng là hoàng đế của nước Yên.
Vào mùa đông năm 911, Lưu Thủ Quang tiến công Nghĩa Vũ, Vương Xử Trực cầu viện Tấn. Lý Tồn Úc khiển Chu Đức Đức Uy đến Dịch Thủy hội quân với tướng Vương Đức Minh của Triệu và tướng Trình Nham (程巖) của Nghĩa Vũ, tiến công quân Yên. Cuối năm 912, Lý Tồn Úc công hạ thủ đô U châu (幽州) của Yên, Yên sau đó diệt vong.
Năm 918, Lý Tồn Úc sau khi đoạt được Thiên Hùng, chuẩn bị tiến hành một chiến dịch lớn để chiếm kinh thành Đại Lương của Hậu Lương. Vương Xử Trực đóng góp 1 vạn quân cho chiến dịch của Lý Tồn Úc. Tuy nhiên, chiến dịch kết thúc với một trận chiến thê thảm đối với cả hai bên tại Hồ Liễu pha, cả quân Tấn và quân Hậu Lương đều thương vong đến hai phần ba, quân Tấn triệt thoái.
Bị lật đổ
Năm 921, Vương Dung bị giết trong một cuộc binh biến, loạn binh ủng hộ Vương Đức Minh tiếp quản Thành Đức, Vương Đức Minh chấp thuận và đổi sang tên họ trước đây là Trương Văn Lễ. Lý Tồn Úc sau đó tuyên bố thảo phạt Trương Văn Lễ để trả thù cho Vương Dung. Vương Xử Trực lại tỏ ra lo lắng, ông suy nghĩ rằng nếu Lý Tồn Úc kiểm soát trực tiếp Thành Đức, thì Nghĩa Vũ cũng sẽ bị chiếm đoạt, và do đó ông đề xuất Lý Tồn Úc hãy chấp thuận cho Trương Văn Lễ quy phục, song Lý Tồn Úc từ chối. đoàn luyện sứ dưới quyền Lý Tồn Úc. Vương Xử Trực nhờ Vương Úc bí mật kích động Da Luật A Bảo Cơ suất quân Khiết Đan xâm nhập, Vương Úc chấp thuận và yêu cầu cha phải cho mình kế nhiệm, Vương Xử Trực đồng ý.
Tuy nhiên, hầu hết các thuộc hạ của Vương Xử Trực sợ hãi trước một cuộc tiến công của Khiết Đan. Còn Vương Đô khi đó đang giữ chức tiết độ phó sứ và được nhìn nhận là người kế nhiệm, vì thế Vương Đô lo sợ trước việc bị Vương Úc thay thế. Do đó, Vương Đô và thư lại Hoa Chiêu Huấn (和昭訓) lập mưu giam giữ Vương Xử Trực. Họ hành động sau một bữa tiệc do Vương Xử Trực tổ chức để thiết đãi sứ giả do Trương Văn Lễ phái đến Nghĩa Vũ, bắt Vương Xử Trực và sau đó quản thúc ông cùng các vợ thiếp tại phủ. Sau đó, Vương Đô đồ sát tất cả các hậu duệ là nam giới của Vương Xử Trực ở tại Định châu, cũng như các thân tín của Vương Xử Trực. Vương Đô xưng là lưu hậu và thông báo sự việc cho Lý Tồn Úc, Lý Tồn Úc sau đó phê chuẩn việc Vương Đô kế nhiệm Vương Xử Trực. (Một người con của Vương Xử Trực là Vương Uy (王威) chạy thoát sang lãnh thổ Khiết Đan, và sau đó người này phụng sự dưới quyền Liêu Thái Tổ và Liêu Thái Tông.)
Qua đời
Vào mùa xuân năm 922, Vương Đô đến thăm phủ đệ của Vương Xử Trực, có vẻ là muốn giả vờ duy trì một mối quan hệ cha-con. Mặc dù không có vũ khí, song Vương Xử Trực nắm tay đấm vào ngực và cố gắng cắn mũi Vương Đô, nói rằng: "Nghịch tặc! Ta đã phụ ngươi bao giờ chưa?" Vương Đô may mà thoát khỏi vòng tay của Vương Xử Trực. Ngay sau đó, Vương Xử Trực qua đời trong tức giận hoặc bị Vương Đô giết.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Xử Trực** (, 862-922), tên tự **Doãn Minh** (允明), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và đầu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ từ
**William, Thân vương xứ Wales** (William Arthur Philip Louis; sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1982) là một thành viên của Vương thất Anh. William là trưởng nam của Charles III, Quốc vương của
**Frederick Louis, Thân vương xứ Wales**, KG (1 tháng 2 năm 1707 – 31 tháng 3 năm 1751) là Trữ quân của nước Anh từ 1727 cho đến khi qua đời. Ông là con trai
**Edward của Westminster**, hay còn gọi là **Edward của Lancaster** (13 tháng 10 năm 1453 – 4 tháng 5 năm 1471) là Thân vương xứ Wales, Công tước xứ Cornwall. Ông là người con đầu
nhỏ|alt=Balcony snap|Hai vợ chồng mới cưới là [[William, Thân vương xứ Wales|Vương tôn William, Công tước xứ Cambridge và Kate, Công tước phu nhân xứ Cambridge trên ban công của điện Buckingham. Bên trái là
**Công tước xứ Rothesay** (; tiếng Gael Scotland: _Diùc Baile Bhòid;_ tiếng Scotland: _Duik o Rothesay_) là tước hiệu triều đại được sử dụng bởi người thừa kế ngai vàng Anh, hiện là William, Thân
**Charles I** (đầu 1226/1227 – 7 tháng 1 năm 1285), thường được gọi là **Charles xứ Anjou** hoặc **Charles d'Anjou**, là thành viên của Vương triều Capet và là người sáng lập Nhà Anjou thứ
**Aloys I** (tiếng Đức: _Aloys Josef Johannes Nepomuk Melchior_; 14 tháng 5 năm 1759 – 24 tháng 3 năm 1805) là Thân vương thứ 10 của xứ Liechtenstein, tại vị từ ngày 18 tháng 8
**Vương Đô** () (?- 26 tháng 3 năm 929), nguyên danh **Lưu Vân Lang** (劉雲郎), là một quân phiệt vào thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Quốc. Ông giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Vương Cáo** (王郜) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường, kế vị cha giữ chức Nghĩa Vũ tiết độ sứ vào năm 895, và giữ chức vụ này cho đến năm 900. Cha
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
liên_kết=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/59/112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg/170px-112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg|nhỏ|_[[Innocent Victims|Tượng Những Nạn nhân Vô tội_, một trong hai đài tưởng niệm trước đây được trưng bày ở Harrods]] Sau năm 1998, người ta cho rằng cái chết của Diana, Vương phi xứ Wales
**Anna Scott, Công tước thứ 1 xứ Buccleuch** cũng gọi là **Anne Scott** (11 tháng 2 năm 1651 – 6 tháng 2 năm 1732) là một Nữ Công tước người Scotland giàu có. Sau khi
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Margaret Pole, Nữ Bá tước của Salisbury** (tiếng Anh: _Margaret Pole, Countess of Salisbury_; 14 tháng 8 năm 1473 – 27 tháng 5 năm 1541), là một nhà đại quý tộc Anh quốc. Bà là
**Vương tôn Albert Victor, Công tước xứ Clarence và Avondale** (Albert Victor Christian Edward; 8 tháng 1 năm 1864 – 14 tháng 1 năm 1892) là con trai trưởng của Thân vương và Vương phi
**Vương tộc Lancaster** (tiếng Anh: _House of Lancaster_; tiếng Pháp: _Maison de Lancastre_) là một nhánh của Vương tộc Plantagenet (giữ ngai vàng của Anh gần 3,5 thế kỷ, từ năm 1154 đến năm 1485).
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Bá quốc Waldeck** (sau này được nâng lên thành **Thân vương quốc Waldeck** và **Thân vương quốc Waldeck và Pyrmont**) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và những người kế
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Edward xứ Angoulême** (27 tháng 1 năm 1365 – tháng 9 năm 1370) là một vương tôn của nước Anh. Cậu từng đứng thứ hai trong danh sách kế vị ngai vàng Vương quốc Anh
Đây là **danh sách công tước và thân vương Benevento**. ## Công tước Benevento * 571–591 Zotto * 591–641 Arechis I * 641–642 Aiulf I * 642–647 Radoald * 647–662 Grimoald I (sau là Vua
**Tuyển đế hầu August xứ Sachsen** (31 tháng 7 năm 1526 – 11 tháng 2 năm 1586) là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1533 đến khi qua đời vào năm 1586, và là tuyển
**Diana Spencer, Thân vương phi xứ Wales** (Diana Frances Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997), báo chí Việt Nam thường gọi là **Công nương** thay vì là **Vương phi**,
thumb|phải|[[Sophia Dorothea của Đại Anh|Princess Sophia Dorothea, con gái duy nhất của George I của Anh, là _British princess_ đầu tiên.]] **Vương nữ Anh, Vương nữ Liên hiệp Anh, Công chúa Anh**, **Công nương Anh**
**Vương tôn Arthur xứ Connaught** (_Arthur Frederick Patrick Albert_; 13 tháng 1 năm 1883 – 12 tháng 9 năm 1938) là một thành viên của Vương Thất Anh và là sĩ quan quân đội Anh.
**Vương quốc Anh** () là quốc gia có chủ quyền đã từng tồn tại từ năm 927 đến năm 1707 ở phía tây bắc lục địa châu Âu. Ở thời đỉnh cao, Vương quốc Anh
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Thân vương quốc Wales** (Tiếng Wales: _Tywysogaeth Cymru_; Tiếng Anh: _Principality of Wales_) ban đầu là lãnh thổ của các Thân vương xứ Wales bản địa thuộc Nhà Aberffraw tồn tại từ năm 1216 đến
**Maud Duff, Bá tước phu nhân xứ Southesk** (khi sinh là **Công nữ Maud Duff**; 3 tháng 4 năm 1893 – 14 tháng 12 năm 1945), được gọi là **Vương tôn nữ Maud** từ năm
**Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg** (14 tháng 4 năm 1699 - 10 tháng 3 năm 1772), là công tước đời thứ 3 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Triều đại Wettin. Ông
**Vương quyền Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Corona de Castilla_; tiếng La Tinh: _Corona Castellae_; tiếng Anh: _Crown of Castile_ ### Vương quyền Castilla từ thời trị vì của Fernano III cho đến khi Carlos
thumb|[[George II của Anh|Prince George Augustus, con trai duy nhất của George I của Anh, là _British prince_ đầu tiên.]] **Vương tử Anh**, **Vương tôn Anh**, **Vương công Anh** hoặc **Công thân Anh**, đôi khi
**Mary Henrietta của Anh hay Mary Henrietta, Vương nữ Vương thất** (tiếng Anh: _Mary Henrietta of England_, _Mary Henrietta, Princess Royal_; 4 tháng 11 năm 1631 - 24 tháng 12 năm 1660), là một Vương
**Vương tôn George xứ Wales** (**George Alexander Louis**; sinh ngày 22 tháng 7 năm 2013) là người con lớn nhất và cũng là con trai cả của William, Thân vương xứ Wales và Catherine, Vương
**Mary Tudor** (/ˈtjuːdər/; tiếng Pháp: _Marie Tudor_; tiếng Tây Ban Nha: _María Tudor_; sinh ngày 18 tháng 3 năm 1496 – mất ngày 25 tháng 6 năm 1533) là một vương nữ người Anh, từng
**Vương tộc Borbone-Hai Sicilie** (Tiếng Tây Ban Nha: _Casa de Borbón-Dos Sicilias_; Tiếng Ý: _Borbone delle Due Sicilie_; Tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Siciles_) là một nhánh của Vương tộc Bourbon Tây Ban Nha cai trị
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
**Louis Philippe I, Công tước xứ Orléans** còn được gọi là **le Gros** (Béo) (12 tháng 5 năm 1725 - 18 tháng 11 năm 1785) là một thân vương người Pháp, công tước đời thứ
**Đồng Thân vương của Andorra** (Tiếng Catalunya: _cap d'estat_; tiếng Pháp: _Cosuzeraineté d'Andorre_; tiếng Anh _Co-Princes of Andorra_) cùng là nguyên thủ quốc gia của Công quốc Andorra, một quốc gia không giáp biển nằm
phải|nhỏ| Hiệp hội Nghệ thuật Hoàng gia Anh tại [[Luân Đôn, Vương quốc Anh ]] **Hiệp hội Vương thất Anh về Xúc tiến Nghệ thuật, Sản xuất và Thương mại,** thường được gọi tắt là
**Vương tử William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh** (25 tháng 11 năm 1743 – 25 tháng 8 năm 1805) là cháu trai của George II và là em trai của George III của
**Công tước xứ Wellington** (tiếng Anh: _Duke of Wellington_) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh, đặt theo tên của đơn vị hành chính Wellington ở hạt Somerset,