✨Utada Hikaru

Utada Hikaru

là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Nhật, được các fan gọi một cách trìu mến là Hikki, Hikaru có nghĩa là "ánh sáng" trong tiếng Nhật.

Tiểu sử

Utada Hikaru sinh ngày 19 tháng 1 năm 1983 tại Manhattan, New York trong một gia đình có truyền thống về âm nhạc. Cha cô là Utada Teruzane, nhà sản xuất và là một nhạc sĩ lâu năm. Mẹ cô là Fuji Keiko (tên diễn), một ca sĩ hát nhạc Enka nổi tiếng ở Nhật Bản vào thập niên 1970. Khi còn nhỏ, cô thường phải đến phòng thu âm thường xuyên vì cha mẹ làm việc ở đó. Năm 3 tuổi, cha mẹ của Hikaru bắt cô học piano. Thoạt đầu, cô rất ghét âm nhạc vì bị bắt buộc mọi thứ, nhưng dần dà khi lớn lên, cô bắt đầu cảm thấy bị nó cuốn hút.

Sự nghiệp âm nhạc

Âm nhạc của Utada bị ảnh hưởng rất nhiều từ cha, người rất yêu nhạc rock. Các ban nhạc mà cô yêu thích bao gồm những tên tuổi lớn như The Beatles, Queen, The Eagles, Bon Jovi và Guns N' Roses.

Bản thân học ở New York, Hikki cũng chịu ảnh hưởng của trào lưu nhạc R&B thịnh hành ở khu vực này. Cô thường nói bài hát đầu tiên mở đường cho cô đến với R&B là bài "Age Ain’t Nothin’ But A Number" do ca sĩ hip-hop nổi tiếng Aaliyah hát.

Lên 8, Hikaru bắt đầu sự nghiệp ca hát của mình trong nhóm U3, thành lập bởi gia đình Utada vào năm 1990. Nhóm bao gồm cả ba thành viên của gia đình: Hikaru, Teruzane và Keiko. Album đầu tiên của U3 U*STAR ra đời vào tháng 9 năm 1993, trong đó có 2 bài được viết bởi cô bé 10 tuổi Hikaru, đó là: "Thank you" và "Kodomotachi no Utaga". Hikaru cũng chính là người vẽ bìa cho album này. Cũng như các album khác được nhóm cho ra đời, U*STAR không gặt hái được thành công nào đáng kể, và đến năm 1997 thì tan rã.

Hikaru quyết định theo đuổi sự nghiệp solo của mình, dưới tên Cubic U. Single đầu tiên "I'll be stronger" được phát hành bởi hãng băng đĩa Liquid Sound Lounge, và không lâu sau đó là Precious, album bằng tiếng Anh ra mắt người nghe. Tuy nhiên, cho đến lúc này, cô vẫn chưa thu hút được sự chú ý của fan Nhật.

Trong một ngày thu âm cùng năm, Hikaru gặp Miyake Akira, một nhà sản xuất nhạc của Toshiba-EMI đang làm việc ở một phòng thu gần đó. Bị cuốn hút ngay lập tức bởi giọng hát và vóc người của Hikaru, Miyake thuyết phục cô sản xuất album ở Nhật dưới tên của hãng EMI.

Tháng 8 năm 1998, Hikaru có buổi live đầu tiên trong "Music Talks", một chương trình giới thiệu tài năng âm nhạc mới của Nhật. Tự giới thiệu mình là Utada Hikaru, cô trình bày bài hát nổi tiếng "Sukiyaki" (bài hát duy nhất trong lịch sử của Nhật trở thành hit ở Mỹ) và bài "Automatic". Chỉ 2 tháng sau, cô cho ra đời single đầu tiên "Automatic/Time Will Tell", tạo một làn sóng ủng hộ cuồng nhiệt từ phía người nghe ở Nhật và nhiều quốc gia châu Á khác. Ngày 10 tháng 3 năm 1999, First love, album đầu tiên, ra đời. Đến cuối tháng 3, album này đã bán được trên 3,5 triệu bản, và 10 triệu bản trên toàn thế giới tính cho đến giờ. First love đã trở thành album bán chạy nhất trong lịch sử Nhật Bản.

Vào năm 2000, Hikaru quyết định quay trở lại Mỹ để tiếp tục học ở Đại học Columbia. Chỉ có ở đây cô mới được sống thoải mái ít được biết đến, mặc dù cũng có tin đồn trong trường là "Britney Spears của Nhật" học ở đó. Hikaru vẫn tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình trong thời gian học đại học. Các album tiếp theo, Distance (2001) và Deep River (2002) đều bán được nhiều triệu bản. Album Deep River còn bao gồm bài "Hikari", nhạc chính của PS2 game: Kingdom Hearts và Kingdom Hearts 2.

Ở thời điểm hiện tại (2004), Hikaru đang tạm gạt chương trình học ở Columbia để tập trung hơn vào sự nghiệp âm nhạc của mình. Cô tâm sự trong một buổi phỏng vấn là dự định sẽ bắt đầu học lại neuroscience sau khi kết thúc sự nghiệp âm nhạc, có thể khoảng tuổi 28.

Tiếp nối thành công ở Nhật, Hikaru bắt đầu thăm dò thị trường âm nhạc của Mỹ. Năm 2001, cô hát nhạc chính của phim Rush Hour 2 cùng với ca sĩ nhạc rap Foxy Brown. Bài hát tên "Blow My Whistle", được sản xuất bởi một trong những hãng nhạc hip-hop lớn nhất của Mỹ: The Neptunes. Lần đầu tiên tên của cô được viết theo kiểu Mỹ, Hikaru Utada, thay vì Utada Hikaru như ở Nhật. Đây cũng được xem là sự bắt đầu của sự nghiệp âm nhạc của cô ở Mỹ.

Cuối năm 2003, Hikaru ký hợp đồng với Island Def Jam để sản xuất album tiếng Anh, đồng thời sử dụng tên họ Utada (bỏ đi chữ Hikaru ở đầu) làm tên chính thức cho thị trường này. Utada có mặt trong album UNITY nhân dịp Olympics mùa hè 2004 ở Athena trong bài "By Your Side" (hát với Timbaland và Kiley Dean). Album được phát hành ở Nhật vào ngày 7 tháng 7.

Danh sách đĩa nhạc

Album phòng thu tiếng Nhật

  • 1999: First Love
  • 2001: Distance
  • 2002: Deep River
  • 2006: Ultra Blue
  • 2008: Heart Station
  • 2016: Fantôme

    Album phòng thu tiếng Anh

  • 1998: ''Precious
  • 2004: ''Exodus
  • 2009: ''This Is the One

Album tuyển tập tiếng Nhật

  • 2004: Utada Hikaru Single Collection Vol. 1
  • 2010: Utada Hikaru Single Collection Vol. 2

Album tuyển tập tiếng Anh

  • 2010: Utada the Best

Album của U3

  • 1993: *Star
  • 2003: Are Kara 10 Nen Kinen Ban
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Nhật, được các fan gọi một cách trìu mến là Hikki, _Hikaru_ có nghĩa là "ánh sáng" trong tiếng Nhật. ## Tiểu sử Utada Hikaru sinh ngày
(sinh ngày 28 tháng 10 năm 1982) là một ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công và người mẫu người Nhật Bản. Tên thật của cô là Aono Mai (青野 真衣). Cha cô là nhà đạo
, thường được gọi ngắn gọn là là một nhà thi đấu nằm trong Bắc Hoàn Công Viên (quần thể của Hoàng Cung Nhật Bản) ở Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản. Mặc dù ban đầu Budokan
**88rising** (cách điệu là **88⬆**), trước đây được gọi là **CXSHXNLY**, (phát âm là "cash only" - "chỉ nhận tiền mặt"), là một công ty âm nhạc Hoa Kỳ mà người sáng lập Sean Miyashiro
Dưới đây là danh sách các nghệ sĩ và các nhóm/ban nhạc J-pop. Khởi nguồn bằng sự tiến hóa từ dòng nhạc jazz và được gọi là Tân nhạc (_New Music_), phong cách âm nhạc
**Người Mỹ gốc Nhật** (, , _Nikkei Amerikajin_, Hán-Việt: "Nhật hệ Mễ Quốc nhân") là người Mỹ có đầy đủ hoặc một phần người gốc Nhật, đặc biệt là những người đồng nhất với tổ
****, thường được gọi là **Universal Music Japan** hoặc **Universal Japan**, là một công ty con của Nhật Bản được thành lập bởi Universal Music Group vào năm 1990. Đây là công ty nước ngoài
Ngày **19 tháng 1** là ngày thứ 19 trong lịch Gregory. Còn 346 ngày trong năm (347 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *379 – Hoàng đế Gratianus thăng Flavius Theodosius làm Augustus, và
**Mariah Carey** (; sinh ngày 27 tháng 3 năm 1969) là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ. Được biết đến với quãng giọng
**Timothy Zachery Mosley** (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1972), được biết đến nhiều nhất với nghệ danh **Timbaland**, là nhà sản xuất âm nhạc, ca sĩ, rapper người Mỹ. Anh từng đoạt bốn giải
**Nguyễn Tuấn Anh** (9 tháng 1 năm 198721 tháng 7 năm 2013), thường được biết đến với nghệ danh **WanBi Tuấn Anh**, là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công kiêm diễn viên người
**Adele Laurie Blue Adkins** Sự nghiệp của cô tại Mỹ thăng tiến mạnh mẽ sau sự xuất hiện của cô trong chương trình _Saturday Night Live_ vào cuối năm 2008. Tại lễ trao giải Grammy
**"That's the Way Love Goes"** là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Janet Jackson nằm trong album phòng thu thứ năm của cô, _janet._ (1993). Nó được phát hành vào ngày
**Evangelion Shin Gekijōban: Q** (ヱヴァンゲリヲン新劇場版:Q, エヴァンゲリオン しんげきじょうばん:キュー) thường được biết với tên phụ khi dùng để giới thiệu là **Evangelion: 3.0 You Can (Not) Redo** là một phim anime do Anno Hideaki làm đạo diễn.
**Evangelion Shin Gekijōban: Jo** (ヱヴァンゲリヲン新劇場版: 序, エヴァンゲリオン しんげきじょうばん:じょ) thường được biết với tên phụ khi dùng để giới thiệu là **Evangelion: 1.0 You Are (Not) Alone** là một phim anime do Anno Hideaki viết và
(trước là ), là một trong những công ty âm nhạc hàng đầu của Nhật Bản. Nó đã trở thành một công ty con thuộc sở hữu của công ty âm nhạc EMI Group Ltd.
**Evangelion Shin Gekijōban: Ha** (ヱヴァンゲリヲン新劇場版: 破, エヴァンゲリオン しんげきじょうばん:は) thường được biết với tên phụ khi dùng để giới thiệu là **Evangelion: 2.0 You Can (Not) Advance** là một phim anime do Tsurumaki Kazuya và Masayuki
Dòng chảy phim hoạt hình (anime) và truyện tranh manga Nhật Bản tràn vào Hoa Kỳ đã và đang làm gia tăng sự chú ý của người Mỹ tới hoạt hình Nhật. Dòng phim anime
**Myoui Mina** (Hangul: 묘이 미나, Kanji: 名井南; Kana: ミョウイミナ, Hán-Việt: Danh Tỉnh Nam, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1997), thường được biết đến với nghệ danh **Mina** (Hangul: 미나), là một nữ ca sĩ
[[Hikaru Utada, nữ ca sĩ có album _First Love_ được coi là bán chạy nhất mọi thời đại trong lịch sử Oricon]] **J-pop** là viết tắt của cụm từ _Japanese pop_ (tiếng Việt: **nhạc pop
**_MTV Unplugged_** là chuỗi chương trình truyền hình được thực hiện bởi các nghệ sĩ nổi tiếng trình bày hoàn toàn bằng các nhạc cụ mộc. Đây là một chuỗi chương trình thành công, từng
**Tên trung tính** (Tiếng Anh: Unisex name) là tên chính (given name, first name) có thể được đặt cho cả nam hoặc nữ. Ở một số nước người ta tránh việc đặt tên trung tính
**AKB48** là nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản ra đời vào ngày 8 tháng 12 năm 2005. Tính đến tháng 4 năm 2025, nhóm có 44 thành viên, gồm có 36 thành viên chính
**Kwon Bo-ah** (tiếng Hàn: 권보아; tiếng Nhật: クォン·ボア; sinh ngày 5 tháng 11 năm 1986), thường được biết đến với nghệ danh **BoA** (Hangul: 보아), là một nữ ca sĩ, vũ công, diễn viên, nhạc
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
là bài hát Nhật Bản được trình bày bởi ca sĩ Kyu Sakamoto (坂本九, _Sakamoto Kyuu_), do Rokusuke Ei viết lời và Hachidai Nakamura sáng tác nhạc. Bài này còn được biết dưới tên **Sukiyaki**,
**Billboard Japan Hot 100** là bảng xếp hạng đĩa đơn ở Nhật Bản. Nó được biên soạn bởi _Billboard_ và _Hanshin Contents Link_ kể từ tháng 2 năm 2008. Bảng xếp hạng được cập nhật
**Sonny John Moore** (sinh ngày 15 tháng 1 năm 1988), được biết đến với nghệ danh **Skrillex**, là một nhà sản xuất nhạc điện tử, DJ, ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ. Lớn lên
**EMI Records Japan** là một hãng thu âm Nhật Bản đang hoạt động như một nhãn hiệu con của Universal Music Japan. Được thành lập vào tháng 4 năm 2013, nó là công ty kế
là sêri manga Nhật Bản được viết và minh họa bởi tác giả Ōima Yoshitoki. Được sêri hóa trong tạp chí _Weekly Shōnen Magazine_ từ ngày 9 tháng 11 năm 2016 đến tháng 6 năm