✨J-pop
[[Hikaru Utada, nữ ca sĩ có album First Love được coi là bán chạy nhất mọi thời đại trong lịch sử Oricon]] J-pop là viết tắt của cụm từ Japanese pop (tiếng Việt: nhạc pop tiếng Nhật hay nhạc pop Nhật Bản), nó cũng là định nghĩa tương đối về một thể loại âm nhạc đã bùng nổ ở thị trường âm nhạc Nhật vào thập niên 1990. Từ này cũng ám chỉ những nghệ sĩ âm nhạc nổi tiếng của Nhật và được sử dụng bởi giới truyền thông Nhật để phân biệt những nghệ sĩ âm nhạc Nhật với những nghệ sĩ nước ngoài.
Lịch sử
Những năm 1920 - 1950: Ryūkōka
Ichiro Fujiyama, ca sĩ nổi tiếng của thể loại ryūkōka Âm nhạc đại chúng Nhật Bản, được gọi là ryūkōka, được phân chia thành hai thể loại enka và poppusu, có xuất xứ từ thời kỳ Minh Trị, nhưng phần lớn các học giả Nhật coi thời kỳ Taishō mới là điểm khởi đầu của ryūkōka, vì đây mới là thời kỳ mà dòng nhạc này giành được tiếng vang toàn quốc. Vào thời kỳ Taisho, các nhạc cụ phương Tây, đã được giới thiệu vào Nhật Bản từ thời Minh Trị, được sử dụng rộng rãi. Chịu ảnh hưởng bởi những dòng nhạc của phương Tây như jazz và blues, ryūkōka đã kết hợp với những nhạc cụ phương Tây như vĩ cầm, harmonica và guitar. Tuy nhiên giai điệu thì vẫn được viết theo thang âm Nhật Bản.
Thập niên 1960: Nguồn gốc của phong cách hiện đại
[[Kyu Sakamoto với ban nhạc ở trường. Ca khúc "Sukiyaki" của ông đã trở thành bài hát tiếng Nhật duy nhất từng giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.]] Năm 1956, phong trào nhạc Rock and Roll phát triển rầm rộ nhờ những nhóm nhạc nổi tiếng như Kosaka Kazuya và Wagon Masters, việc những nhóm nhạc này biểu diễn ca khúc nổi tiếng của Elvis Presley là Heartbreak Hotel càng làm khuấy động nóng lên cho phong trào. Thể loại này được giới truyền thông Nhật gọi là "Rokabirī"" (ロカビリー). Các ca sĩ học tập thể loại nhạc này và dịch lời các ca khúc nổi tiếng của Mỹ, dẫn đến phong trào Cover Pops (カヴァーポップス, Kavā poppusu). Phong trào Rokabirī đạt đến đỉnh cao khi 45.000 khán giả Nhật tới xem buổi biểu diễn của những ca sĩ Nhật tại Carnival phương Tây Nichigeki trong một tuần vào tháng 2 năm 1958.
Thập niên 1970: Phát triển
Đầu thập niên 1960, âm nhạc Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi sự hồi sinh của nhạc dân gian Mỹ, điều này được gọi là "fōku" (フォーク), dù cho thể loại nhạc này phần lớn là các bài hát lại (cover) của những ca khúc gốc.
Đầu thập niên 1970, âm nhạc Nhật chuyển từ những ca khúc đơn giản được đệm bởi guitar sang các ca khúc được biên soạn phức tạp hơn được gọi là New Music (ニューミュージック,nyū myūjikku). Thay vì những thông điệp xã hội, các ca khúc thuộc thể loại này tập trung vào các thông điệp cá nhân như tình yêu.
Thể loại nhạc rock thời kỳ này chưa thực sự phát triển ở Nhật Bản. Tuy nhiên đến năm 1978, đĩa đơn "Toki yo Tomare" của rocker Eikichi Yazawa trở thành một hit lớn với hơn 639.000 bản được bán ra. Ông được tôn vinh là người tiên phong cho nhạc rock Nhật Bản. Trong khi đó, Keisuke Kuwata thành lập nhóm nhạc rock Southern All Stars và cho ra mắt vào năm 1978. Southern All Stars hiện vẫn nổi tiếng cho tới ngày nay. Cùng năm đó, Yellow Magic Orchestra cũng ra đời, ban nhạc gồm 4 thành viên này đã phát triển thể loại electropop. Southern All Stars và Yellow Magic Orchestra đã chấm dứt thời kỳ của New Music.
Thập niên 1980
Buổi biểu diễn của nhóm [[X Japan]] Trong thập niên 1980, từ City Pop được dùng để mô tả thể loại âm nhạc đại chúng lấy bối cảnh thành phố, trong đó thành phố Tokyo đã trở thành nguồn cảm hứng đề tài cho nhiều nghệ sĩ. Dù City Pop bị ảnh hưởng bởi New Music, ban nhạc rock Happy End được coi là một trong những người khai sinh ra dòng nhạc này ở Nhật Bản.
Trong thập niên này các nghệ sĩ nhạc rock trở nên rất nổi tiếng như Southern All Stars, Anzen Chitai, The Checkers, The Alfee, Boøwy và TM Network. Alfee trở thành nghệ sĩ đầu tiên thu hút được 100.000 người tới concert. Boøwy trở thành ban nhạc rock có ảnh hưởng, 3 album của nhóm đã giành được vị trí quán quân năm 1988, giúp họ trở thành những nghệ sĩ nam đầu tiên giành được kỳ tích này trong vòng một năm. Cuối thập niên 1980, phong trào visual kei nổi lên trong thể loại nhạc rock của Nhật, đây là một phong cách nổi bật với các nhóm nhạc nam, họ trang điểm đậm với những kiểu tóc kỳ quái và những trang phục lưỡng tính. Những đại diện tiêu biểu là X Japan và Buck-Tick.
Thời kỳ này cũng đánh dấu sự nổi lên của những ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng như Mari Amachi, Saori Minami, Momoe Yamaguchi, Candies, Akina Nakamori, Kyōko Koizumi, Yōko Oginome, Miho Nakayama, Minako Honda và Chisato Moritaka. Các ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng đã giành được những thành công đáng kể và hiện vẫn là những thành phần chính của thị trường âm nhạc Nhật Bản.
Thập niên 1990
nhỏ|[[Namie Amuro (ở giữa) biểu diễn tại MTV Asia Aid ở Bangkok, Thái Lan.]] Đây là giai đoạn mà thị trường âm nhạc Nhật Bản phát triển mạnh mẽ với những chiến lược marketing hiệu quả và tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm âm nhạc với số lượng lớn. Thời kỳ từ 1990 tới 1993 là giai đoạn âm nhạc Nhật bị thống trị bởi những nhóm nhạc, ca sĩ được quản lý bởi các công ty, tiêu biểu là các nghệ sĩ như B'z, Tube, T-Bolan, Zard, Wands, Maki Oguro, Deen, Keiko Utoku và Field of View. Giai đoạn 1994 tới 1997, dòng nhạc dance/techno xâm lấn với sự nổi lên của những nghệ sĩ như TRF, Ryoko Shinohara, Yuki Uchida, Namie Amuro, Hitomi, Globe, Tomomi Kahala và Ami Suzuki.
Trong giai đoạn từ 1997 tới 1999 là giai đoạn đỉnh cao của thị trường thương mại âm nhạc Nhật Bản với hàng loạt ca sĩ đạt được cột mốc hàng triệu bản CD bán ra thị trường. Trong đó nổi bật nhất là việc Hikaru Utada bán được 7.650.000 bản cho album đầu tay First Love sau khi nó được tung ra thị trường vào tháng 3 năm 1999.
Thập niên 2000: Đa dạng hóa
[[Hamasaki Ayumi|Ayumi Hamasaki tại Đài Loan, tháng 3 năm 2007.]] Thập niên 2000, những ảnh hưởng của dòng nhạc R&B và Hip hop tràn tới Nhật Bản. Tháng 11 năm 2000, nhóm nhạc R&B Hóa học bán được 1,14 triệu bản trong tuần đầu tiên The Way We Are. Hay album MusiQ của Orange Range tiêu thụ được 2,5 triệu bản, biến nó trở thành album ăn khách nhất năm 2005.
Namie Amuro vẫn tiếp thống trị thị trường âm nhạc bởi phong cách thời thượng của mình.
Đây là giai đoạn nổi lên sự xuất hiện của công ty quản lý nổi tiếng Johnny & Associates, công ty đã đào tạo ra hàng loạt tên tuổi đình đám của âm nhạc Nhật giai đoạn này. Ca sĩ Ayumi Hamasaki tạo nên một cơn chấn động trong lịch sử Giải thưởng Thu âm Nhật Bản khi trở thành ca sĩ đầu tiên giành 3 giải grand pix liên tiếp từ 2001 tới 2003.
Khởi đầu là "cuộc chiến" giữa những nhóm nhạc nữ thần tượng như AKB48, Hello! Project (Morning Musume, Cute, Berryz Kobo và S/mileage), Super Girls.
nhỏ|[[Momoiro Clover Z]] Thời kỳ này cũng đánh dấu sự trở lại của những cựu binh làng nhạc Nhật Bản. Mặc dù tỷ lệ bán album ngày càng sụt giảm nhưng lượng khán giả tới xem các buổi biểu diễn ngày càng gia tăng. Năm 2007, Eikichi Yazawa trở thành nghệ sĩ đầu tiên biểu diễn 100 lần tại Nippon Budokan. Những nghệ sĩ nhạc rock như Mr. Children, B'z, Southern All Stars và Glay vẫn giành được vị trí quán quân trong giai đoạn này. Ca khúc "Sign" của Mr. Children đã giành được giải Grand pix tại Giải thưởng Thu âm Nhật Bản năm 2004. Album Home năm 2007 của Mr. Children cũng giúp nhóm vượt qua cột mốc 50 triệu đĩa bán ra tại Nhật, giúp nhóm trở thành nghệ sĩ có lượng album bán ra nhiều nhất ở Nhật Bản sau B'z với hơn 75 triệu đĩa.
Thập niên 2010
Khởi đầu là "cuộc chiến" giữa những nhóm nhạc nữ thần tượng như Momoiro Clover Z, Tokyo Girls' Style.
Vào năm 2011, Kyary Pamyu Pamyu - một ca sĩ xuất thân là một người mẫu Harajuku ra mắt MV "PONPONPON", nó trở thành một hiện tượng trên YouTube vì phong cách Harajuku độc đáo được thể hiện trong cách biểu diễn cũng như trang phục, fan ở khắp nơi trên thế giới diện áo đầm bắt chước theo phong cách của Kyary Pamyu Pamyu mỗi khi cô đến biểu diễn.
Nhóm nhạc nữ Perfume trong giai đoạn này liên tục đứng đầu bảng xếp hạng với mỗi single của mình.
Thập niên này cũng đánh dấu sự đột phá của các band nhạc, ONE OK ROCK, SCANDAL lần lượt thâm nhập thị trường Mỹ với nhiều thành công gặt hái.
Kể từ năm 2015 trở đi, kèm theo sự ảnh hưởng lớn của K-Pop, và YouTube, dòng nhạc thị trường Nhật Bản gặp trắc trở, ngày càng có nhiều người chú ý đến những nghệ sĩ internet như Yonezu Kenshi, Daoko, các MV của họ có lúc đạt mốc 200 triệu lượt xem, dẫn tới khởi đầu trong sự chuyển mình của thị trường nhạc Nhật, chuyển từ bán đĩa sang dạng kỹ thuật số.
Nhạc Nhật lời Việt
Thập niên 1960 - 1970, các ca khúc Pháp, Mỹ, Ý... ồ ạt du nhập vào VN, trong đó nhạc Mỹ, Pháp rất được giới trẻ Sài Gòn ưa thích. Những bài hát này có giai điệu hiện đại, nội dung gần gũi được liên tục phát trên đài phát thanh, truyền hình, đã ảnh hưởng đến cách nghe nhạc của giới trẻ Sài Gòn. Trong đó có những ca khúc Nhật ngữ cũng không ngoại lệ, được nhạc sĩ Việt Nam soạn lời Việt được trình diễn rầm rộ khắp nơi và được giới trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Trong giai đoạn này, có không ít các ca khúc Nhật ngữ của danh ca Mayumi Itsuwa hay nữ danh ca Đài Loan Đặng Lệ Quân đều được các nhạc sĩ Việt Nam như Phạm Duy, Lữ Liên, Khúc Lan, Nhật Ngân,... mua tác quyền về biên dịch.
**A-pop** | |
Thuộc quốc gia | • • • • |
Ngôn ngữ | Tiếng Nhật • Tiếng Trung Quốc • Tiếng Hàn **Pop rap**, còn được gọi là **pop hip hop**, **hip pop**, **melodic hip hop** hoặc **melodic rap**, là một thể loại âm nhạc kết hợp giữa nhịp điệu của nhạc hip hop với đặc điểm Dưới đây là **danh sách các nghệ sĩ K-pop nổi bật trong hoạt động cá nhân(soloist)**. (không phải nhóm nhạc). Về danh sách liệt kê các nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc, xem bài Danh "**Family Affair**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Mary J. Blige nằm trong album phòng thu thứ năm của cô, _No More Drama_ (2001). Nó được phát hành vào ngày "**Bang Bang**" là một bài hát của ca sĩ người Anh Jessie J, ca sĩ người Mỹ Ariana Grande và rapper người Mỹ Nicki Minaj nằm trong album phòng thu thứ ba của Jessie J, Thuật ngữ J-Core (コアJ), hay **Japanese Hardcore** (Hardcore Nhật Bản) được dùng để chỉ đến một biến thể của âm nhạc điện tử có nguồn gốc từ hardcore techno, đến từ Nhật Bản, có nhịp **Nhạc pop Thái Lan** (tiếng Thái: ไทยป็อป) hay **T-pop** hoặc **Nhạc trẻ Thái Lan** là một thể loại âm nhạc Thái Lan đại thể tương đương với nhạc pop phương Tây. Dòng nhạc này nổi Dưới đây là **danh sách các nghệ sĩ dance-pop đáng chú ý**. ## 0–9 *1TYM *2NE1 *2PM *2AM *2Bic *3OH!3 *4Minute *4Men *5Dolls ## A *A-Jax (ban nhạc) *A Pink *Aaron Carter *Adam Lambert * **P-pop**, **Nhạc đại chúng Philippines** (tiếng Tagalog và tiếng Anh: _Pinoy pop_ hay _Filipino pop_, viết tắt là **OPM pop**) ý chỉ nền âm nhạc đại chúng đương đại ở Philippines. Khởi đầu từ thập Ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đã và đang chứng kiến sự xuất hiện của hai làn sóng thần tượng, khởi đầu với giải thưởng Làn Sóng Xanh năm 1997. Các **thần tượng V-pop** Phấn Má Clinique CHEEK POP 3.5gPhấn Má Clinique CHEEK POP là dòng sản phẩm phấn má hồng với kết cấu siêu mịn cùng màu sắc đa dạng, mang lại hiệu ứng tự nhiên và căng **Mary Jane Blige** ( / b l aɪ ʒ / _BLYZHE_ ; sinh ngày 11 tháng 1 năm 1971) là một ca sĩ, nhạc sĩ và diễn viên người Mỹ. Thường được gọi là " nhỏ|J-Hope biểu diễn tại [[Golden Disc Awards lần thứ 33 vào ngày 6 tháng 1 năm 2019.]] Rapper, vũ công, nhạc sĩ và nhà sản xuất thu âm người Hàn Quốc J-Hope đã viết hơn **Jessie J**, tên khai sinh là **Jessica Ellen Cornish** (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1988), là nghệ sĩ–nhạc sĩ người Anh. Cô ký hợp đồng thu âm với hãng Island Records và thu âm Đây là **danh sách những nghệ sĩ dream pop**. Danh sách này bao gồm những nghệ sĩ có vị trí quan trọng đối với thể loại nhạc này, hoặc có sự tiếp xúc đáng kể là album concept J-pop do Jun Maeda sản xuất với giọng ca Nagi Yanagi. ## Danh sách các track là một ca sĩ kiêm sáng tác bài hát người Nhật đến từ vùng Kinki của Nhật Bản và hiện đang làm việc theo hợp đồng với NBCUniversal (tên lúc trước là Geneon). Buổi đầu Những hình ảnh biểu tượng về lịch sử hơn một nghìn năm hào hùng, bi tráng của Thăng Long - Hà Nội sẽ được tái hiện qua Hà Nội ngàn năm kí ức. Không chỉ **With Love, J** là mini-album / EP đầu tay của ca sĩ người Mỹ gốc Hàn Quốc Jessica. Phiên bản tiếng Hàn của album bao gồm 6 bài hát được phát hành trên toàn thế **TVXQ**. Năm 2005, nhóm được giới thiệu tại Nhật Bản dưới tên âm Hán-Nhật tương ứng là **Tohoshinki** (Kanji: 東方神起), với công ty chủ quản là Rhythm Zone (công ty con của Avex). Nhóm có **_J.Lo_** là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ người Mỹ Jennifer Lopez, được phát hành vào ngày 23 tháng 1 năm 2001 bởi hãng Epic Records. Album đứng đầu bảng xếp hạng **Moriah Rose Pereira** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1995), còn được biết tới qua nghệ danh **Poppy**, là một ca sĩ, người viết bài hát, diễn viên, vũ công và YouTuber người Mỹ. Cô **AKB48** (, ) là một nhóm nhạc thần tượng nữ Nhật Bản do Akimoto Yasushi sáng lập năm 2005, được mô tả như là một hiện tượng xã hội. AKB48 hiện đang nắm giữ kỷ **Candy Pop** là một bài hát được thu âm bởi nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Twice. Đây là đĩa đơn maxi tiếng Nhật thứ hai của nhóm với 3 bài hát khác. Bài hát được **S.E.S.** (Hangul: 에스이에스; từ viết tắt của **Sea, Eugene, Shoo**) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập vào năm 1997 bởi SM Entertainment. Nhóm bao gồm 3 thành viên: Bada, Eugene và "**A Whole New World**" là một đĩa đơn nhạc pop nổi tiếng từng giành giải Oscar trong album nhạc phim của bộ phim do Disney sản xuất năm 1992, _Aladdin_. Bài hát do Alan Menken (tất cả viết cách điệu in hoa) là một ban nhạc heavy metal người Nhật Bản. Đội hình ban nhạc gồm có Nakamoto Suzuka nghệ danh "Su-metal", Kikuchi Moa nghệ danh "Moametal" và Okazaki Momoko **Ado** (アド, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2002) là một utaite và ca sĩ người Nhật Bản. Cô hiện đang trực thuộc công ty quản lý nghệ sĩ Cloud Nine. ## Sự nghiệp ### sinh ngày 2 tháng 5 năm 1987 là một ca sĩ thể loại J-rock và J-pop. Cô trực thuộc Sony Music Japan. Kitade nổi tiếng với phong cách thời trang Gothic Lolita nổi bật mà là một ca sĩ và nhạc sĩ J-Pop người Nhật Bản, được gọi với tên Kanayan bởi các fan hâm mộ của mình, đã ký hợp đồng với SME Records' Newcome Inc, khởi nghiệp ngày **Itano Tomomi** (板野 友美 Bản Dã Hữu Mỹ?) (sinh ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại Yokohama, Kanagawa) là cựu thành viên Team K của nhóm nhạc thần tượng nữ AKB48, công ty quản lý **J.Fla** (Hangul: 제이플라, Latin: Jeipeulla), tên khai sinh **Kim Jung-Hwa** hoặc **Kim Jeong-Hwa** (Hangul: 김정화, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1987), là một nữ ca sĩ và nhà sáng tạo nội dung Youtube người **Shibuya-kei** (渋谷系) là một nhánh của nhạc pop Nhật Bản có nguồn gốc ở quận Shibuya của Tokyo. Nó được mô tả như một sự pha trộn giữa jazz, pop và nhạc pop điện tử. **J-Star** là viết tắt của Jungiery-Star. Jungiery là một công ty âm nhạc của Đài Loan. Thành viên của J-Star bao gồm các nhóm nhạc: 5566, 183 Club, 7 Flowers (Thất Đóa Hoa), Đài Phong (sinh ngày 13 tháng 11 năm 1982) là một ca sĩ, nhạc sĩ và biểu tượng thời trang người Nhật Bản. Cô được biết đến là người đi tiên phong tại Nhật với phong cách **2PM** () là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc ra mắt năm 2008, được thành lập bởi JYP Entertainment. Nhóm bao gồm 6 thành viên: Jun. K (trước đây là Junsu), Nichkhun, Taecyeon, Wooyoung, Junho là một ca sĩ - nhạc sĩ sáng tác nhạc pop người Nhật, cũng là nhà sản xuất âm nhạc và họa sĩ minh họa. Anh bắt đầu làm và phát hành nhạc Vocaloid dưới Đây là **danh sách các nghệ sĩ indie pop**. Danh sách này không bao gồm các ban nhạc địa phương ít được biết đến. Ban nhạc được liệt kê theo chữ cái đầu tiên trong |