✨U-363 (tàu ngầm Đức)

U-363 (tàu ngầm Đức)

U-363 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện được bảy chuyến tuần tra, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. U-363 đã sống sót qua cuộc xung đột, đầu hàng cùng lực lượng Đồng Minh tại Narvik, Na Uy vào ngày 9 tháng 5, 1945, rồi cuối cùng bị đánh đắm ngoài khơi Ireland trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight vào ngày 31 tháng 12, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8-276 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-363 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 1, 1941,

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

U-363 thực hiện chuyến tuần tra thứ hai khi xuất phát từ Bogenbucht vào ngày 4 tháng 8 để hoạt động tại vùng biển Bắc Cực chung quanh đảo Bear. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Narvik vào ngày 2 tháng 9.

Chuyến tuần tra tiếp theo trong biển Bắc Cực của U-363 được tiến hành từ ngày 2 tháng 9 đến ngày 6 tháng 10, cùng xuất phát và kết thúc tại Narvik.

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

U-363 lại xuất phát từ Narvik vào ngày 15 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ tư. Chiếc tàu ngầm đã vượt qua mũi North để hoạt động tại khu vực biển Barents cho đến khi quay trở về Kilbotn vào ngày 11 tháng 11.

Trong chuyến tuần tra thứ năm, U-363 rời Kilbotn vào ngày 28 tháng 11 để hoạt động trong biển Barents xa hơn về phía Tây, đến tận ngoài khơi bán đảo Kola ở lối ra vào cảng Murmansk. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Narvik vào ngày 8 tháng 12.

1945

Chuyến tuần tra thứ sáu và thứ bảy

Sau khi thực hiện các chuyến đi ngắn giữa Narvik, Trondheim và Kilbotn vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, U-363 lại xuất phát từ Kilbotn vào ngày 12 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ sáu, và quay trở về Kilbotn vào ngày 31 tháng 3.

U-363 thực hiện chuyến tuần tra thứ bảy, cũng là chuyến cuối cùng, khi xuất phát từ Kilbotn vào ngày 18 tháng 4, và kết thúc khi quay trở về Narvik vào ngày 8 tháng 5.

Số phận

Sau khi Đức Quốc xã chấp nhận đầu hàng, U-363 cùng 14 tàu U-boat Đức khác còn lại tại căn cứ Narvik được phía Đồng Minh chỉ thị đi đến Skjomen để tránh đụng độ với lực lượng Na Uy. Đến ngày 15 tháng 5, chúng cùng năm hạm tàu nổi khác của Đức lên đường đi sang Trondheim để đầu hàng. Trên đường đi họ bắt gặp Đội hộ tống 9 của Anh, và U-363 chính thức đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào ngày 17 tháng 5. Các tàu U-boat được áp giải sang Loch Eriboll, Scotland, đến nơi vào ngày 19 tháng 5.

"Bầy sói" tham gia

U-363 từng tham gia tám bầy sói:

  • Trutz (2 - 28 tháng 6, 1944)
  • Trutz (17 - 30 tháng 8, 1944)
  • Zorn (29 tháng 9 - 1 tháng 10, 1944)
  • Grimm (1 - 2 tháng 10, 1944)
  • Panther (16 tháng 10 - 10 tháng 11, 1944)
  • Stier (28 tháng 11 - 4 tháng 12, 1944)
  • Hagen (13 - 21 tháng 3, 1945)
  • Faust (21 tháng 4 - 1 tháng 5, 1945)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-363_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
, còn được gọi là hay là một lớp tàu ngầm hạng nhất phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của lớp tàu được gọi
**_I-362_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-361_** là một tàu ngầm vận tải, chiếc dẫn đầu của lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
nhỏ|phải|Thủ tướng Hideki Tojo **Tōjō Hideki** (kanji kiểu cũ: 東條 英機; kanji mới: 東条 英機; Hán Việt: _Đông Điều Anh Cơ_) (30 tháng 12 năm 1884 – 23 tháng 12 năm 1948) là một đại
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Cincinnati** là thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ nằm bên cạnh sông Ohio và vùng Bắc Kentucky. Nó là quận lỵ của quận Hamilton. Theo Thống kê Dân số năm 2000, Cincinnati