nhỏ|280x280px|Tài liệu [[Dictatus Papae về thẩm quyền của Giáo hoàng được viết vào thế kỷ 11, hiện được lưu trong Văn khố Tông tòa Vatican, ghi lại quá trình danh xưng "giáo hoàng" trở nên dành riêng cho giám mục Rôma. Trong tuyên bố XI văn kiện có ghi "" (), ]]
Tước hiệu của giám mục Rôma hay tước hiệu của giáo hoàng là các tước hiệu được sử dụng theo phép xã giao để nhắc đến giám mục Giáo phận Rôma (tức Giáo hoàng) hoặc để chỉ ra một thực tế thần học hoặc thế tục của ông. Giáo hội Công giáo tin rằng các tước hiệu này "cấu thành nên một chức vụ được gọi là giáo trưởng danh dự. Tương tự với các quyền tài phán của mình, các đặc quyền trên trên không bị ràng buộc bởi thẩm quyền thiêng liêng của chức vụ của ông. Số lượng các tước hiệu của giáo hoàng đã tăng lên và được lưu giữ qua nhiều thế kỷ, nhưng chúng không phải là không thể bị sửa đổi".
Ban đầu, các tước hiệu trên được dùng để thể hiện sự cung kính, tôn trọng và quyền năng, nhưng một số tước hiệu về sau đã gắn bó mật thiết với chức vụ của vị giám mục Rôma, trở thành các tước hiệu độc đáo và đặc trưng dành cho ông. Hai tước hiệu lâu đời nhất hiện đang được sử dụng là "papa" và "pontifex" Tuy nhiên, danh sách tước hiệu chính thức không bao gồm tất cả các tước hiệu từng được sử dụng; trong lịch sử, giáo hoàng còn dùng nhiều tước hiệu khác, đôi khi kéo dài nhiều thế kỷ nhưng lại bị bãi bỏ vào một thời điểm trong quá khứ.
Các tước hiệu chính thức
Danh sách các tước hiệu chính thức của giáo hoàng được liệt kê theo thứ tự trong Niên giám Tòa Thánh năm 2024 là:
- Giám mục Rôma ()
- Đại diện của Chúa Giêsu Kitô ()
- Người kế vị Thủ lãnh các Tông đồ ()
- Thượng giáo tông của Giáo hội hoàn vũ ()
- Thượng phụ Tây phương ()
- Giáo trưởng nước Ý ()
- Tổng giám mục Tổng giáo chủ Giáo tỉnh Roma ()
- Quốc vương Thành quốc Vatican ()
- Tôi tớ các tôi tớ Thiên Chúa (). theo đó Chúa Giêsu giao cho Tông đồ Phêrô chìa khóa Nước Trời. Ở hầu hết các quốc gia, chìa khóa là biểu tượng của quyền lực. Do đó, theo Giáo hội Công giáo, Chúa Kitô đã hứa ban cho tông đồ Phêrô quyền làm chủ Giáo hội khi người vắng mặt với tư cách là một vị Đại diện.
trái|nhỏ|260x260px|Một văn kiện do [[Viện nguyên lão La Mã|Viện nguyên lão Rôma ấn hành vào năm 1615 để ban cho ông Hasekura Tsunenaga danh hiệu "công dân danh dự của Rôma", trong đó giáo hoàng dùng tước hiệu "Giáo tông của giáo phận Rôma, Đấng chủ chăn của Hội Thánh Công giáo hoàn vũ, Cha chung của toàn thế giới và Đại diện của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa toàn năng." Bảo tàng Sendai.]]
Giáo hoàng Lêô I (ở ngôi từ 440–461) trong một văn bản gửi Thượng phụ Dioscorus thành Alexandria vào năm 445 đã mệnh danh các Giám mục Rôma là "Đại diện của những đấng kế vị thánh Phêrô"; không lâu sau, vào năm 495, nhiều sắc lệnh công nghị đã gọi Giáo hoàng Gêlasiô I (ở ngôi từ 492–496) là "Đại diện của Chúa Kitô". Vì thế vào sơ kỳ Trung Cổ đã xuất hiện nhiều biến thể của tước hiệu này, chẳng hạn như "Đại diện của Thánh Phêrô" (), chỉ ra rằng giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, "Đại diện của Thủ lãnh các Tông đồ" () hay "Đại diện của Tông Tòa" () cùng nhiều biến thể khác. Nguyên nhân cả hai tước hiệu "Đại diện của Thánh Phêrô" và "Đại diện của Chúa Kitô" đều được sử dụng đó là vì vào cuối thế kỷ 8, thánh Bônifaciô dùng tước hiệu "Đại diện của Thánh Phêrô" trong lời tuyên thệ trung thành của mình để trình lên Giáo hoàng Grêgôriô II (ở ngôi từ 715–731), trong khi đó khoảng vài thập kỷ sau thì Giáo hoàng Gioan VIII (ở ngôi từ 872–882) lại dùng tước hiệu "Đại diện của Chúa Kitô". Thậm chí ngày nay, sách Nghi thức Thánh lễ Rôma trong kinh cầu cho giáo hoàng đã qua đời cũng dùng tước hiệu "Đại diện của Thánh Phêrô" để gọi vị giáo hoàng ấy.
Do các cải cách của Giáo hoàng Innôcentê III (ở ngôi từ 1198–1216), tước hiệu Đại diện của Chúa Kitô không còn được sử dụng cách thường xuyên từ sau thế kỷ 13, sớm nhất là từ sau khi ông gửi một bức thư cho Vua Levon II của Armenia vào năm 1199. Ông cũng thường viện dẫn tước hiệu này nhằm biểu lộ đặc quyền bổ nhiệm giám mục của mình. Nhiều nhà sử học khác cho rằng tước hiệu này được sử dụng nhiều dưới triều Giáo hoàng Êugêniô III (ở ngôi từ 1145–1153) và sau đó được củng cố vào triều Giáo hoàng Innôcentê III.
Tước hiệu này có nhiều ý nghĩa về mặt thần học và thế tục, được tác giả Tertullianus dùng để ám chỉ Chúa Thánh Thần trong một bài phê bình cá nhân vào thế kỷ 3, và được dùng trong thuyết quốc gia quản lý Giáo hội (Caesaropapism) để ám chỉ các nhà cầm quyền và nhà chức trách, chẳng hạn như vua, thẩm phán và nổi bật nhất là hoàng đế Đông La Mã. biểu lộ quyền thủ lãnh của ông trên các tông đồ ( có nghĩa là "người đứng đầu" hoặc "người quan trọng nhất"). Ghi chép đầu tiên về tước hiệu này nằm trong các bài giảng của Giáo hoàng Lêô I vào thế kỷ 5, người đã dùng tước hiệu "Người kế vị Thủ lãnh các Tông đồ" để minh chứng cho quyền chủ tịch của mình:
Đức tin kiên vững đáng ngợi khen của vị Thủ lãnh các tông đồ thực là trường tồn. Chừng nào những điều Thánh Phêrô xác tín về Chúa Kitô còn, chừng ấy những gì Chúa Kitô đã thiết lập nơi con người thánh Phêrô còn. (...) trung thành với sức mạnh hòn đá tảng mà ngài lãnh nhận, ngài đã không từ bỏ quyền lãnh đạo Hội Thánh được trao phó nơi ngài.
Tước hiệu này được tôn phong cách gián tiếp cho các giáo hoàng, người sử dụng tước hiệu chính thức là "Người kế vị Thủ lãnh các Tông đồ" hay "Đại diện Thủ lãnh các Tông đồ", cùng với một số biến thể khác.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|280x280px|Tài liệu _[[Dictatus Papae_ về thẩm quyền của Giáo hoàng được viết vào thế kỷ 11, hiện được lưu trong Văn khố Tông tòa Vatican, ghi lại quá trình danh xưng "giáo hoàng" trở nên
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
thumb|Giáo hoàng Biển Đức XVI năm 2007 **Giáo hoàng Biển Đức XVI thoái vị** vào ngày 28 tháng 2 năm 2013 lúc 20:00 CET sau khi ông trực tiếp tuyên bố điều này vào sáng
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Siricius** (tiếng Việt là **Siriciô**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Damasus và là vị Giáo hoàng thứ 38. Ông được suy tôn là một vị thánh của nhà thờ Công giáo. Theo niên giám
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
Giáo hoàng đối lập Clement III giữa và Hoàng đế Henry IV **Guibert** hay **Wibert Ravenna** (1029 - 08 Tháng 9 năm 1100) là một Giám mục người Ý, Tổng Giám mục của Ravenna, người
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Lêô X** (Latinh: **Leo X**) là vị giáo hoàng thứ 217 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1513 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Biển Đức XIII **Biển Đức XIII** tên thật là **Pedro Martínez de Luna y Pérez de Gotor** (1328 - 23 tháng 5 năm 1423), được biết đến như là "giáo hoàng
**Anacletus II** (mất ngày 25 tháng 1 năm 1138) tên khai sinh: Pietro Pierleoni, là một giáo hoàng đối lập trị vì từ năm 1130 cho đến khi qua đời, trong sự ly giáo nhằm
nhỏ|Lăng mộ của Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII |309x309px **Lăng mộ của Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII** là một lăng mộ được xây bằng đá cẩm thạch và đồng của Giáo
nhỏ|Chân dung Sylvester II từ _[[Sách Phúc Âm Otto III_]]**Sylvestrô II** (Latinh: **Sylvester II**) là vị giáo hoàng thứ 139 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh
**Innôcentê VIII** (Latinh: **Innocens VIII**) là vị giáo hoàng thứ 213 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1484 và ở ngôi Giáo
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Clement VII **Robert Geneva** (1342-16 tháng 9 năm 1394) được bầu làm giáo hoàng đối lập với tước hiệu là Clement VII bởi các vị hồng y người Pháp phản đối
**Grêgôriô VII** (Latinh: **Gregorius VII**) là một giáo hoàng có vai trò rất lớn đối với lịch sử giáo hội Công giáo và được suy tôn là thánh sau khi qua đời. Ông là nhân
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Giáo hoàng Biển Đức XIV** (Tiếng La Tinh: _Benedictus XIV_), còn gọi là **Bênêđíctô XIV** (31 tháng 3 năm 1675 – 3 tháng 5 năm 1758, tên khai sinh: **Prospero Lorenzo Lambertini**) là một giáo
**Đamasô II** (Latinh: **Damasus II**), tên khai sinh là **Poppo**,, được kể như là giáo hoàng thứ 151. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1048 và ở
**Thêôđorô I** (Tiếng Latinh: _Theodorus I_) là vị giáo hoàng thứ 73 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 642 và ở
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Giáo hoàng Lêô XIV** (tên khai sinh: **Robert Francis Prevost**; sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955) là giáo hoàng của Giáo hội Công giáo và nguyên thủ Thành Vatican. Ông được bầu làm giáo
**Giáo hoàng Biển Đức XV** (tiếng Latinh: _Benedictus PP. XV_, tiếng Ý: _Benedetto XV_; 21 tháng 11 năm 1854 - 22 tháng 1 năm 1922) tên khai sinh: **Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa,** là
**Innôcentê III** (Latinh: **Innocens III**) là vị giáo hoàng thứ 176 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1198 và ở ngôi
**Giáo hoàng Innôcentê XI** (Tiếng Latinh: _Innocentius XI_, tiếng Ý: _Innocenzo XI_) tên khai sinh là **Benedetto Odescalchi**, là vị giáo hoàng thứ 239 của giáo hội Công giáo và là người cai trị Lãnh
**Ađrianô I** hoặc **Hadrianô I ** (Tiếng Latinh: **Adrianus I**) là vị giáo hoàng thứ 95 của giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào
**Victor IV** (chết sau tháng 4 năm 1139), là một giáo hoàng đối lập trong một thời gian ngắn vào năm 1138. Ông sinh ra ở Ceccano với tên là **Gregorio Conti**. Giáo hoàng Paschal
**Alexanđê II** (Latinh: **Alexander II**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Nicholas II và là vị giáo hoàng thứ 156. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1006
nhỏ|Hình ảnh của Giáo hoàng đối lập Christophero **Christopher** đã được đưa lên làm giáo hoàng từ tháng 10 năm 903 đến tháng 1 năm 904. Mặc dù ông đã được liệt kê như một
**Giáo hoàng Lêô XI** (2 tháng 6 năm 1535 – 27 tháng 4 năm 1605), tên thật là **Alessandro Ottaviano de' Medici**, ông ở ngôi giáo hoàng từ ngày 1 tháng 4 năm 1605 đến
**Stêphanô VI** hoặc **VII** (Latinh: **Stephanus VI**) là vị giáo hoàng thứ 113 của Giáo hội Công giáo. Sau triều đại của Giáo hoàng Boniface VI chỉ kéo dài có 15 ngày Stephanus được đưa
Sau cái chết của Giáo hoàng Sergius IV vào tháng 6 năm 1012, "một Gregory" đã phản đối nhóm của Theophylae (người đã được bầu làm Giáo hoàng Biển Đức VIII) và được một nhóm
**Giáo phận Roma** (; ) là một giáo phận Công giáo tại Italia và Thành Vatican, thuộc quyền tài phán trực tiếp của Giáo hoàng, là Giám mục Roma và là Thượng giáo tông của
**Quý bà** (từ nguyên gốc tiếng Anh: **_dame_**, phát âm: /deɪm/) là một tước hiệu và là kính ngữ (quý danh), dùng để chỉ một phụ nữ đã được tôn vinh và công nhận bởi
**Hoàng đế của Toàn Nga** hoặc **Sa hoàng Nga** (tiếng Nga: (cải cách năm 1918) Императоръ Всероссійскій, Императрица Всероссійская, (chính tả hiện đại) Император Всероссийский, Императрица всероссийская, _Imperator Vserossiyskiy_, _Imperatritsa Vserossiyskaya_) là hoàng đế chuyên
**Bônifaciô III** (Tiếng Latinh: _Bonifacius III_) là vị giáo hoàng thứ 66 của Giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Sabinian. Niên giám tòa thánh năm 1806 xác định rằng ông đắc
**Grêgôriô XII** (Latinh: **Gregorius XII**) là vị giáo hoàng thứ 205 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1406 và ở ngôi Giáo
**Amadeus VIII** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1383 tại Chambéry – mất ngày 07 tháng 1 năm 1451) là con trai của Amadeus VII, Bá tước của Savoy và Bonne của Berry. Ông mang
nhỏ|Giáo hoàng đối lập Alexander V **Alexander V** (cũng được gọi là Peter Candia hoặc Peter Phillarges, khoảng 1339 - 03 tháng 5 năm 1410) là một Giáo hoàng đối lập trong thời kỳ ly
vừa|phải **Giáo hoàng**/**Giáo hoàng đối lập Biển Đức X** (trị vì 1058-1059; mất khoảng 1073 hoặc 1080) được sinh ra tại John Mincius, và sau này trở thành Hồng y Giám mục của Velletri. Ông
**Biển Đức VIII** (Latinh: **Benedictus VIII**) là vị giáo hoàng thứ 143 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào năm 1012 và ở
**Anicêtô** (Latinh: _Anicetus_) là vị Giáo hoàng thứ 11 của Giáo hội Công giáo. Ông được suy tôn là một vị thánh của Giáo hội. Triều đại Giáo hoàng của ông bắt đầu từ năm