✨Triết học Việt Nam
Triết học Việt Nam là những tư tưởng triết học của người Việt. Trong suốt lịch sử Việt Nam nếu theo tiêu chí của một nền triết học là phải có triết gia, triết thuyết và trường phái thì Việt Nam không có một nền triết học bản địa nào. Suốt mấy thập kỷ qua, quan niệm này chiếm ưu thế trong đánh giá hoạt động văn hóa tinh thần của đất nước. Tuy nhiên, một số học giả, một số nhà nghiên cứu vẫn nhìn nhận rằng dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến riêng, trong nó chứa đựng một sắc thái tư tưởng không giống với các nền văn minh lân cận. Những nghiên cứu tư tưởng dân tộc làm cho việc khẳng định có một thứ tư tưởng triết học Việt Nam dần dần trở nên tự tin hơn. Đến nay, có xu hướng còn cho rằng Việt Nam không chỉ có những tư tưởng triết học mà còn có cả những học thuyết triết học theo đúng nghĩa của nó.
Việt Nam có sự giao lưu, tiếp biến với nhiều nền văn minh trên thế giới: tiếp biến với nền văn hóa Trung Hoa bằng việc tiếp thu Nho giáo, Lão giáo và các tư tưởng triết học khác; tiếp biến với văn minh Ấn Độ một phần do đạo Phật từ Ấn Độ du nhập sang; sau này tiếp nhận Công giáo và các trường phái triết học phương Tây khác. Những tư tưởng triết học này đã được Việt Nam tiếp nhận một cách có chọn lọc, sau đó bản địa hóa. Chính vì vậy những tư tưởng triết học Việt Nam bao gồm triết học bản địa được thể hiện qua văn học dân gian và các tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng triết học Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây được du nhập vào Việt Nam. Nhiều yếu tố triết học đã xuất hiện trong thời Cổ đại và Trung đại tại Việt Nam. Léopold-Michel Cadière quan tâm đến triết học bình dân Việt Nam (philosophie pupulaire Annamite), nhiều nhà văn hoá học Việt Nam đã quan tâm đến: tín ngưỡng dân gian bản địa, tín ngưỡng phồn thực và nguồn gốc của Kinh Dịch nguyên thuỷ.
Các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu các vấn đề sau trong triết học Việt Nam:
Những vấn đề triết học tự nhiên và nhận thức luận: bao gồm mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa con người và tự nhiên, tinh thần và vật chất (phương Tây gọi là vấn đề cơ bản của triết học). Chẳng hạn, những vấn đề như quan hệ giữa Trời và người, hình và thần, giữa tâm và vật, hữu và vô, lý và khí...
Phương pháp tư duy: như quan hệ giữa tĩnh và động, thường và vô thường, thuận lẽ trời với lòng người...
Những vấn đề triết học chính trị: như đường lối trị nước của các triều đại, mối quan hệ giữa trị và loạn, mối quan hệ giữa vua và quan (quân thần), mối quan hệ giữa vua với dân, vấn đề sử dụng nhân tài...
Những vấn đề triết học nhân sinh: như bản chất con người, sự thành bại trong việc đào tạo, giáo dục con người, đạo làm người, các chuẩn mực đạo đức,...
Đặc điểm của triết học Việt Nam
Nhiều người cho rằng dân tộc Việt Nam có tính thực dụng cao, chỉ biết tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tôn giáo cho phù hợp với mình chứ "Không có sáng tạo, chỉ có vay mượn; chỉ có áp dụng, chỉ có thích nghi. Đó là sự thật của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt". Tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc mang tính giáo điều thiếu sáng tạo, là sự thu nhỏ của triết học Ấn Độ và Trung Quốc. Ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng không sâu, thiên về sùng bái, thờ cúng, cầu xin cho bản thân hơn là thiên về giáo lý. Điều này do người Việt học hỏi nhanh nhưng hiểu biết không sâu sắc, thiếu hệ thống, không mấy ai có trí tuệ lỗi lạc phi thường, hiếm có những người xem học thuật là sự nghiệp cả đời. Người Việt có nhiều khả năng nghệ thuật hơn khoa học; nhiều trực giác hơn lý luận; tư duy thiếu chiều sâu, thiếu hệ thống; óc sáng tạo ít, nhưng bắt chước, thích ứng, dung hòa thì tài... Tư duy người Việt không có ưu thế về phân tích, tổng hợp, thực nghiệm khoa học, quy nạp, suy luận logic, trừu tượng hóa mà thiên về kinh nghiệm cá nhân, trực giác, cảm tính.
Người Việt không tự nghĩ ra được triết thuyết nào mà chỉ tiếp thu các học thuyết triết học từ bên ngoài nhưng lại không có hiểu biết sâu sắc, nói một đằng làm một nẻo và dễ dàng vứt bỏ chúng khi thời cuộc thay đổi. Các tư tưởng triết học được du nhập vào Việt Nam đều bị giản lược hóa và biến thành giáo điều". Các văn bản còn lưu giữ được đến ngày nay cho thấy người Việt đã không có nỗ lực nào để hiểu sâu sắc bản chất của những gì họ thấy hay đặt vấn đề những gì họ thấy có phản ánh đúng bản chất của đối tượng hay không. Tư duy của người Việt hoàn toàn xa lạ với siêu hình học. Đào Duy Anh nhận xét về người Việt "Về tính chất tinh thần, thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực". Điều này có thể do Việt Nam chưa bao giờ là xứ sở giàu có nên người ta xem trọng những nhu cầu vật chất hơn tinh thần. Thạch Lam nhận xét "Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược... Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no".
Ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chung chứ không có lịch sử tư tưởng triết học. Nếu có tư tưởng triết học thì chỉ là những dạng triết lý chứ không gọi là tư tưởng triết học''".
- Vũ trụ: là sự hiện hữu, là bức tranh đa dạng về thế giới (gồm thiên nhiên, nội tâm, ý thức, tư duy). Các phạm trù có liên quan như bản thể, bản thể luận, đại ngã, trời đất, chân - thiện - mỹ.
- Đạo: tri thức xuất phát từ chiêm nghiệm, quan sát cuộc sống, từ trực giác đến logic hoá thành khái niệm qua trừu tượng những sự vật hiện tượng. Các phạm trù có liên quan: đạo lý, đạo đức, đạo làm người.
- Mâu thuẫn: gồm các cặp phạm trù: âm – dương; hữu – vô; thiện – ác; lợi - hại; tiến – thoái… trong thế đối lập, nhưng dựa vào nhau tồn tại, chuyển hoá nhau…
- Vận động: là dạng thức sống động của trời đất, vũ trụ. Nó liên hệ với những phạm trù: dịch, sinh, chu kỳ vũ trụ. khứ (đi) – lai (về); cân bằng, quân bình, nhân quả, bản thể, thịnh – suy...
- Không gian: là môi trường cho con người và các sự vật hiện tượng tồn tại. Không gian là vô biên, trước hết nó chứa nền văn minh của khách thể.
- Thời gian: là qui ước, con người Cổ trung đại xem thời gian là vĩnh cửu.
- Con người: với tư cách là một hữu thể, con người là bộ phận hữu cơ của thế giới. Có sự vận động từ con người đạo lý, con người vũ trụ đến con người cá nhân. Con người được trân trọng, mẫu mực là con người cảm thông với tạo vật – công bằng - khoan dung. Nó liên quan đến: bản ngã, vô ngã. Bằng lối tư duy nhân văn, con người được đề cao không chỉ ở cấp độ nhân bản mà hơn thế nữa con người giao hoà với thế giới thông qua các giác quan và những hành động.
- Trí tuệ: giúp con người nhận thức, tích luỹ tri thức, sáng tạo ra văn hoá. Nó liên quan đến các phạm trù: ý thức, nhận thức, vô thức, nhận thức sai lầm, cố chấp. Tướng - Thể - Dụng.
- Yêu thương: thuộc về nhân sinh quan. Yêu thương và thù hằn là hai dạng năng lượng khác nhau. Nó liên quan đến các phạm trù: nhân – nghĩa; trung - hiếu; nghĩa - lợi, khoan dung; hoà; hoà; tích hợp... *Hạnh phúc: là khát vọng vĩnh cửu của con người, tuỳ thuộc vào thái độ của người cảm nhận. Nếu triết học Ấn Độ (Védànta) không lạc quan cũng không bi quan thì tư tưởng Việt Nam thiên về lạc quan (Phan Ngọc, Lê Ngọc Cầu). Nó liên quan đến các phạm trù: niết bàn, an lạc, thiên đường, bồng lai, đào nguyên...
Có nhiều phạm trù vay mượn vỏ ngôn ngữ Ấn Độ và Trung Hoa nhưng đã được chọn lọc và đi vào văn hoá dân gian, văn hoá dân tộc, nó có hiện tượng khác đi bởi môi trường văn hoá Việt Nam, hoặc có khi được sử dụng với thang giá trị mới của người Việt. Nên từ đó, nhiều phạm trù đã đi xa hơn, tạo một khoảng cách đáng kể với kinh điển chính thống để nhập cuộc vào cuộc sống thiết thực rất đời thường. Người Việt "chỉ tiếp thu những gì phù hợp với đạo lý có sẵn ở Việt Nam" và "những học thuyết, tôn giáo từ nước ngoài... được khai thác, vận dụng kết hợp với lương tri nhân dân để trở thành triết lý đạo đức dân gian". Từ những phạm trù triết học được xác lập, ta có thể góp phần tạo những cơ sở cần thiết cho khoa học lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong thế vận động, ta có điều kiện để tìm thấy những tiền đề cần thiết trong sự giao lưu với tư tưởng triết học phương Tây. Việc nghiên cứu triết học Việt Nam góp phần giải thích lịch sử bằng triết học xã hội, triết học chính trị.
Các nhà tư tưởng tiêu biểu
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông.
Thư mục
- Trần Huy Liệu (1966), Nguyễn Trãi, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học
- Đoàn Trung Cổn: Tam tự kinh, Nhà xuất bản. Đồng Nai, 1999.
- Đoàn Trung Cổn: Pháp giáo nhà Phật, Nhà xuất bản. Tôn giáo, 2002.
- Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng: Các triều đại Việt Nam, (In lần thứ VI), Nhà xuất bản. Thanh niên, Hà Nội, 2001.
- Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam - Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
- Trần Văn Giàu: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản. Chính trị Quốc gia, t.1,1996, 1.2, 1997.
- Nguyễn Hùng Hậu: Đại cương Triết học Việt Nam, Nhà xuất bản. Thuận Hóa, 2005
- Nguyễn Hùng Hậu: Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Khoa Triết học, Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Hùng Hậu: Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông, Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam,
- Nguyễn Hùng Hậu: Triết lý trong văn hóa phương Đông,
- Nguyễn Hùng Hậu, Doãn Chính, Vũ Văn Gầu: Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Nhà xuất bản. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
- Bùi Biên Hòa: Đạo Phật và thế gian, Nhà xuất bản. Hà Nội, 1998.
- Trần Trọng Kim: Nho giáo, Nhà xuất bản. thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Trần Trọng Kim: Phật giáo, Nhà xuất bản. Tôn giáo, 2003.
- Nguyễn Hiến Lê: Luận ngữ, Nhà xuất bản. Văn học, Hà Nội, 1995.
- Nguyễn Hiến Lê: Khổng tử, Nhà xuất bản. Văn hoá thông tin, 1996.
- Nguyễn Hiến Lê: Trang tử- Nam hoa kinh, Nhà xuất bản. Văn hoá thông tin, 1994.
- Nguyễn Hiến Lê: Lão tử- Đạo đức kinh, Nhà xuất bản. Văn hoá thông tin, 1994.
- Nguyễn Hiến Lê: Mạnh tử, Nhà xuất bản. Văn hoá thông tin, 1996.
- Hầu Ngoại Lư,Triệu Kỷ Bân, Đỗ Quốc Tường: Hiển học Khổng Mặc, Nhà xuất bản. Sự thật, Hà Nội,1959.
- Nguyễn Văn Ngọc,Trần Lê Nhân: Cổ học tinh hoa, Nhà xuất bản. Văn hoá-thông tin, Hà Nội, 2000.
- Quách Văn Phúc, Lý Văn Phức: Nhị thập tứ hiếu, Nhà xuất bản. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
- Nguyễn Thu Phong: Tính Thiện trong tư tưởng Đông phương, Nhà xuất bản. Văn học, thành phố Hồ Chí Minh,1997.
- Bùi Ngọc Sơn: Việt Nam tinh hoa đạo đức, Nhà xuất bản. Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Tài Thư (cb): Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I.
- Lê Sỹ Thắng (cb): Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập II,
- Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 2001, (In lần thứ ba).
- Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội, 1998.
- Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử triết học phương Đông, Nhà xuất bản. thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
- Nguyễn Đăng Thục: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản. Tp. Hồ Chí Minh, 1992.
- Nguyễn Hữu Trọng: Đạo đức cổ nhân, Nhà xuất bản. Văn học, Hà Nội, 2002.
- Chiêm Trúc: Thuật xử thế của cổ nhân, Nhà xuất bản. Thanh niên, Hà Nội, 2002.
- Trương Lập Văn cb.: Đạo- triết học phương Đông, Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
- Nhiều tác giả: Lịch sử văn học Việt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
- Nhiều tác giả: Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Nhà xuất bản. Văn hóa- Thông tin, 2001.