✨Trâu rừng Philippines

Trâu rừng Philippines

Trâu rừng Philippines, trâu rừng Tamaraw hoặc trâu lùn đảo Mindoro (danh pháp hai phần: Bubalus mindorensis) là một loài động vật hữu nhũ nhỏ, có móng guốc thuộc họ Bovidae. Đây là loài đặc hữu trên đảo Mindoro, Philippines và là loài trâu bò đặc hữu duy nhất tại Philippines. Tuy nhiên, người ta tin rằng, chúng cũng từng hiện diện đông đúc trên đảo Luzon rộng lớn. Trâu rừng Philippines ban đầu sinh sống trên khắp đảo Mindoro, từ mặt biển lên đến miền núi (2000 m so với mực nước biển). Nhưng do con người sinh sống, săn bắn và khai thác gỗ, hiện nay trâu chỉ còn giới hạn tại vài đồng cỏ hẻo lánh; hiện tại là loài nguy cấp. Đây là động vật hữu nhũ bản địa trên cạn lớn nhất của quốc gia này.

Giải phẫu và hình thái

Bubalus mindorensis có vẻ bề ngoài của một thành viên điển hình thuộc họ trâu bò. Loài có thân hình như bò, nhỏ gọn, cứng cáp, 4 chân kết thúc tại bộ móng guốc chẻ. Đầu nhỏ có sừng kết thúc tại chiếc cổ ngắn. Trâu rừng Philippines nhỏ, chắc nịch hơn so với trâu nước châu Á (Bubalus bubalis). Có chút ít sự lưỡng hình giới tính ở loài này mặc dù trâu đực được báo cáo có chiếc cổ dày hơn. Trâu rừng Philippines có chiều cao bờ vai trung bình đạt . Chiều dài cơ thể đạt , chiếc đuôi bổ sung thêm . Cân nặng dao động từ .

Trâu trưởng thành có màu sắc từ nâu sẫm đến xám; nhiều lông hơn loài Bubalus bubalis. Tứ chi ngắn, chắc nịch. Những vết trắng xuất hiện trên móng guốc và mặt trong vùng thấp chân trước. Những dấu vết tương tự trâu anoa Bubalus depressicornis. Màu sắc gương mặt tương tự phần thân. Hầu hết thành viên của loài đều có một cặp sọc vằn màu trắng xám bắt đầu từ góc trong mắt kéo đến sừng. Mũi và môi có da đen. Đôi tai dài 13,5 cm từ khóe đến đỉnh với vệt trắng bên trong.

Cả hai giới đều phát triển cặp sừng đen ngắn hình chữ V so với cặp sừng hình chữ C của loài Bubalus bubalis. Cặp sừng có bề mặt phẳng, hình tam giác tại chân đế. Do cọ xát thường xuyên, sừng Trâu rừng Philippines có bề mặt ngoài mòn nhưng mặt trong phía bên thô. Cặp sừng dài .

Phân bố

Trâu rừng Philippines được đề cập trong các tài liệu lần đầu vào năm 1888 tại đảo Mindoro. Trước năm 1900, hầu hết người dân tránh định cư trên đảo Mindoro do chủng vi rút sốt rét chết người. Tuy nhiên, khi thuốc chống sốt rét phát triển, có nhiều người đã định cư trên đảo. Con người gia tăng hoạt động đã khiến quần thể trâu rừng Philippines suy giảm đáng kể. Đến năm 1966, phạm vi trâu rừng Philippines giảm xuống chỉ còn tại 3 khu vực: núi Iglit, núi Calavite và khu vực gần lãnh thổ trực thuộc Sablaya. Đến năm 2000, phạm vi loài tiếp tục giảm chỉ còn tại 2 khu vực: công viên quốc gia núi Iglit-Baco và Aruyan. Số lượng trâu ước lượng tiếp tục tăng nhẹ cho đến khi IUCN xuất bản dữ liệu sách đỏ năm 1969, nơi mà quần thể trâu rừng Philippines được ghi nhận đáng báo động rằng thấp hơn 100 con. Đếm theo sĩ số tăng lên 120 con trâu vào năm 1975. Theo ước tính hiện nay số lượng trâu rừng Philippines hoang dã từ 30 đến 200 cá thể. khiến tương tác lẫn nhau giữa bất kỳ cá thể đơn lẻ nào khác hiếm xuất hiện.

Môi trường sống

Bubalus mindorensis ưa thích khu vực rừng cao nguyên nhiệt đới. Chúng thường sinh sống trong những bụi rậm dày đặc, gần tán rừng rộng mở nơi chúng gặm cỏ và tìm được cỏ. Kể từ khi con người cư trú và phân mảnh rừng về sau trên hòn đảo Mindoro quê hương, môi trường sống ưa thích của trâu rừng Philippines phần nào mở rộng đến đồng bằng cỏ thấp so với mực nước biển. Tại môi trường miền núi, trâu rừng Philippines sẽ thường xuyên sống nơi không cách xa nguồn nước. Có một khoảng thời gian 2 năm trong thời kỳ sinh, mặc dù một trâu cái sinh sống cùng 3 trâu con, trâu non ở lại khoảng 2–4 năm với trâu mẹ trước khi trở nên độc lập. Trâu đực và trâu cái được biết kết giao quanh năm nhưng sự tương tác này chỉ kéo dài vài giờ. Đề xuất giả thuyết rằng tập tính đơn độc này là sự thích nghi với môi trường rừng rậm.

Một tập tính riêng biệt khác của B. mindorensis là tính hung hăng. Nhiều báo cáo liên quan đến tính hung hăng khi bị kích động mặc dù hầu hết vô căn cứ. Tư thế đe đọa điển hình của loài trâu bò gồm hạ thấp đầu, chuyển dời sừng vào vị trí thẳng đứng. Hành động này đi kèm lắc đầu sang một bên. Trên thực tế, hóa thạch tìm được vào thế kỷ XX cho biết B. mindorensis đã từng phân bố trên đảo Luzon, phía bắc của Philippine trong suốt kỷ nguyên canh tân.

Là thành viên thuộc họ Bovidae, họ hàng gần của trâu rừng Philippines là trâu nước (Bubalus bubalis) đã được xác nhận rất nhiều lần trong quá khứ. Chúng từng được xem là một phân loài của loài B. bubalis (như Anoa bubalis), Anoa bubalis mindorensis. Nghiên cứu phân tích di truyền gần đây về thành viên cùng họ đã củng cố thêm quan điểm này.

Từ nguyên và lịch sử phân loại

Trâu rừng Philippines ban đầu được nhà động vật học người Pháp Pierre Marie Heude mô tả bằng danh pháp Anoa mindorensis vào năm 1888. Năm 1958, loài được mô tả bằng danh pháp Anoa bubalis mindorensis, một phân loài của loài trâu nước về sau (Anoa bubalis).

Nghiên cứu và phân tích sau đó về mối quan hệ xác định chi rằng Anoa là một phần của chi Bubalus. Danh pháp khoa học của trâu rừng Philippines được cập nhật theo hình dạng hiện tại, Bubalus mindorensis (đôi khi được tham chiếu là Bubalus (Bubalus) mindorensis).

Bảo tồn

right|thumb|Hình minh họa trâu rừng Philippines.

Là 1 loài thú quý hiếm và hoàn toàn đặc hữu, Bubalus mindorensis xếp như một loài cực kỳ dễ bị đe đọa. Hiện nay, chúng được phân loại là loài cực kỳ nguy cấp kể từ năm 2000 do IUCN vào sách đỏ IUCN về loài nguy cấp. Nhận thức về tình trạng bảo tồ Bubalus mindorensis bắt đầu từ năm 1965 khi chúng được phân loại là tình trạng được biết không xác đáng bởi IUCN. Dữ liệu đầy đủ thu thập được về quần thể trâu rừng Philippines năm 1986, và trung tâm giám sát bảo tồn IUCN công bố chúng là loài nguy cấp. Trong suốt các cuộc điều tra thành công được tiến hành vào năm 1988, 1990, 1994 và 1996, loài vẫn được liệt kê trên sách đỏ là nguy cấp. Việc niêm yết lại loài vào năm 1996 hoàn thành tiêu chí B1+2cD1 của IUCN. Tiêu chí B1 chỉ ra rằng phạm vi của loài vật này ít hơn 500 km² và được biết tồn tại trong ít hơn năm địa điểm độc lập. Sự suy giảm tiếp tục nhận thấy trong quần thể hoàn thành tiểu tiêu chí 2c, đưa ra điều kiện môi trường sống độc nhất của quần thể. Tiêu chí D1 cơ bản yêu cầu một quần thể ít hơn 250 cá thể trưởng thành; cá thể đếm được của quần thể B. mindorensis tại thời điểm đó tính toán thấp hơn đáng kể. Năm 2000, trâu rừng Philippines được liệt kê vào sách đỏ dưới tiêu chí C1 nghiêm trọng hơn. Điều này do ước tính rằng số lượng giảm 20% trong năm năm hoặc trong khoảng thời gian hai thế hệ.

Nhiều yếu tố góp phần vào sự suy giảm quần thể trâu rừng Philippines. Trong suốt thế kỷ này, sự gia tăng dân số loài người trên đảo Mindoro khiến cho quần thể trâu rừng Philippines duy nhất trên đảo bị tác động áp lực do con người gây ra. Vào những năm 1930, sự ra đời của gia súc phi bản địa trên đảo gây ra dịch tả trâu bò nặng giữa quần thể hàng nghìn trâu rừng Philippines. Săn bắt trâu rừng Philippines làm thực phẩm như phương kế sinh nhai cũng đã gây thiệt hại về số lượng của loài. Yếu tố quan trọng nhất đe dọa sự sống còn của B. mindorensis là mất môi trường sống do quy hoạch đô thị, khai thác gỗ và nông nghiệp. Những yếu tố làm giảm quần thể hàng ngàn xuyên suốt đầu những năm 1900 ít hơn 300 cá thể trong năm 2007.

Năm 1979, một sắc lệnh được ký kết thành lập ủy ban đặc biệt hướng đến bảo tồn trâu rừng Philippines. Trâu rừng Philippines được xét như "nguồn gốc niềm tự hào quốc gia" trong văn kiện E.O. Dự án bảo tồn trâu rừng Philippines được thiết lập năm 1979. Tổ chức đã lai tạo thành công một con trâu rừng Philippines, đặt tên "Kali", trong mioi6 trường nuôi nhốt năm 1999. Xuyên suốt những năm 1970, một quỹ gen được thành lập để bảo tồn số lượng trâu rừng Philippines. Tuy nhiên, dự án không thành công khi chỉ có một con non, đặt tên là "Kali", được sinh ra. Tính đến năm 2011, Kali là con vật duy nhất sống sót trong dự án tổng hợp gen. Dự án cũng không được cải thiện khi khu bảo tồn hoang dã và cục môi trường cho thấy rừng Philippines đã được nuôi trong môi trường hoang dã. Nhân bản không được thực hiện để bảo tồn như Bộ Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên lập luận rằng biện pháp này sẽ làm giảm đa dạng di truyền của loài.

Một tiểu quần thể nhỏ của trâu rừng Philippines tìm được trong phạm vi khu bảo tồn chim thú núi Iglit cùng trên đảo Mindoro.

Vào tháng 10 năm 2008, giám đốc trung tâm trâu đầm lầy Philippine (DA-PCC) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Philippine, tiến sĩ Arnel del Barrio, chính thức báo cáo rằng số lượng trâu rừng Philippines đã tăng hàng năm trung bình khoảng 10% từ 2001 đến 2008. Tháng 4, 2008, báo cáo tình hình trâu rừng Philippines của chương trình bảo tồn Tamaraw (công viên quốc gia núi Iglit-Baco trên Mindoro Occidental), bởi chính phủ và thực thể tư nhân, bao gồm sinh viên đại học viễn đông (FEU), tiết lộ rằng "quần thể trâu tamaraw đếm được khoảng 263 trong năm nay so với chỉ 175 con vào năm 2001. Tỷ lệ sinh sản ước lượng bằng số con non 1 tuổi cao đáng kể... đó có nghĩa rằng nhiều hơn 55% số trâu tamaraw được sinh ra. Tại công viên quốc gia núi Iglit-Baco, số con vật đếm được chính thức là 263 năm 2006, 239 năm 2007 và 263 năm 2008." Người dân Mangyan bản địa tại Mindoro đã ngừng giết mổ động vật để lấy máu.

Quỹ tài trợ Haribon gọi loài vật này là "báu vật nguy cấp của Mindoro" và "loài nguy cấp hàng đầu của Philippines" về sau cho đến năm 2005. Trong những năm 1930, số lượng trâu rừng Philippines giảm do dịch tả trâu bò, một dịch bệnh do vi rút gây ra ảnh hưởng từ gia súc. Trong những năm 1960 và 1970, thợ săn giết trâu rừng Philippines như hoạt động thể thao. Quan trọng hơn, phá rừng tràn lan (từ 80% độ che phủ rừng môi trường sống trong những năm 1900 xuống còn 8% vào năm 1988) trong khu vực đẩy nhanh suy giảm động vật.

Liên minh Quốc tế về bảo tồn loài Bangkok, Thái Lan (IUCS) đã thiết lập một trang trại quỹ gen rộng 280-hectare tại Rizal, Mindoro Occidental. Ngoài ra, trồng rừng quy mô lớn được thực hiện để đẩy nhanh nhân giống trâu rừng Philippines. Số trâu hiện nay chỉ tìm được tại khoảng núi thuộc công viên quốc gia núi Iglit-Baco, núi Calavite, ngọn đèo Halcon-Eagle, thung lũng núi Aruyan-Sablayan-Mapalad, và núi Bansud-Bongabong-Mansalay.

Tuyên cáo tổng thống 273 năm 2002 đặt tháng mười là "tháng đặc biệt về bảo tồn và bảo vệ trâu rừng Philippines tại Mindoro."

Tầm quan trọng với con người

Giá trị kinh tế và thương mại

Mặc dù không bị khai thác nặng nề như những loài động vật hữu nhũ lớn, bị đe dọa khác, quần thể trâu rừng Philippines trên đảo Mindoro đã chịu một số áp lực thu hoạch từ thợ săn sinh kế trước khi những nỗ lực bảo tồn được thúc đẩy khoảng nửa sau thế kỷ XX. IUCN mô tả công cuộc này vẫn đang tiếp diễn trong báo cáo sách đỏ năm 2006. nhưng trâu rừng Philippines vẫn được xem là một biểu tượng quốc gia của Philippines. Một hình ảnh của con vật xuất hiện trên phiên bản từ 1980 đến đầu 1990 của đồng xu 1-peso Philippines.

Năm 2004, Tuyên cáo số 692 được ban hành để thực hiện ngày 1 tháng 11, kỳ nghỉ gia công đặc biệt ở tỉnh Occidental Mindoro. Phù hợp tháng bảo tồn Tamaraw, công bố nhằm mục đích nhắc nhở người dân Mindoro về tầm quan trọng của việc bảo tồn trâu rừng Philippines và môi trường sống của loài.

Trong những năm 1970, hãng xe máy Toyota, thông qua công ty địa phương không hoạt động Delta Motor, xây dựng Tamaraw AUV (Asian Utility Vehicle). Bởi sự chắc chắn và đơn giản trong thiết kế, một số ví dụ vẫn còn tồn tại đến ngày nay, sao chép bởi các công ty đa quốc gia Ford, General Motors, và Nissan, thông qua nhà sản xuất công ty con địa phương đến ngày nay. Bởi vì nó là một phương tiện hữu ích châu Á, nó chia sẻ thiết kế của mình với Kijang, phiên bản Indonesia. Thị trường xe ô tô Toyota từng giữ một nhượng quyền thương mại tại Hiệp hội Bóng rổ Philippine, đặt tên cho đội tài trợ là Toyota Tamaraws (xem bên dưới).

Trong suốt sự trỗi dậy của tiện ích châu Á trong năm 1990, mô tô Toyota Philippine phát hành một loại xe tiện ích châu Á gọi là Tamaraw FX tại Philippine, một sự tiến hóa của Tamaraw AUV. Nó được bảo trợ rộng rãi bởi các hãng taxi và ngay lập tức biến thành một chế độ lương vận chuyển giống như một dấu thập của xe taxi và jeepney. FX cuối cùng phát triển thành Revo.

Trâu rừng Philippines cũng là linh vật của đội thể thao thuộc đại học viễn đông (FEU Tamaraws) tại Hiệp hội thể thao đại học của Philippines, và Toyota Tamaraws thuộc Hiệp hội Bóng rổ Philippine.

Sự sụp đổ Tamaraw tại Barangay Villaflor, Puerto Galera được đặt tên dựa trên loài trâu này.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trâu rừng Philippines**, **trâu rừng Tamaraw** hoặc **trâu lùn đảo Mindoro** (danh pháp hai phần: _Bubalus mindorensis_) là một loài động vật hữu nhũ nhỏ, có móng guốc thuộc họ Bovidae. Đây là loài đặc
**Tông Trâu bò** (danh pháp khoa học: **Bovini**) là một tập hợp các loài động vật ăn cỏ to lớn nhất trong phân họ Bovinae cũng như trong Họ Trâu bò (Bovidae). Những loài này
nhỏ|phải|Tổng thể một con trâu thuộc giống trâu địa phương ở Lào **Trâu nhà** hay còn gọi là trâu nước là các loài trâu nhà đã được con người thuần hóa. Chúng đã được lai
nhỏ|phải|Hai con trâu đầm lầy **Trâu đầm lầy** là một giống trâu trong nhóm trâu nước, được tìm thấy ở Philippines nhưng được du nhập bởi người Mã Lai từ lâu. Sau này do trâu
nhỏ|phải|Con trâu lội trong đầm Trong nhiều văn hóa, hình tượng con **trâu** phổ biến trong văn hóa phương Đông và gắn bó với cuộc sống người dân ở vùng Đông Nam Á và Nam
nhỏ|phải|Một con trâu đang được nuôi ở Nepal **Nuôi trâu** hay **chăn nuôi trâu** hay còn gọi đơn giản là **chăn trâu** là việc thực hành chăn nuôi các giống trâu nhà phục vụ cho
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
phải|Hai con lợn rừng **Lợn rừng** hay **heo rừng** (_Sus scrofa_) còn được gọi là **lợn lòi** là một loài lợn sinh sống ở lục địa Á-Âu, Bắc Phi, và quần đảo Sunda Lớn. Con
**Trảu đầu nâu** (tên khoa học **_Merops viridis_**) là loài chim thuộc họ Trảu. Loài này phân bố ở Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Hong Kong, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Đài Loan, Thái Lan và
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Cá sấu nước mặn** (danh pháp hai phần: _Crocodylus porosus_), còn gọi là **cá sấu cửa sông** hay ở Việt Nam còn được gọi là **cá sấu hoa cà**; là loài cá sấu lớn nhất
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
**Cau** (**tân lang,** Hán tự: **檳榔**) (danh pháp hai phần: **_Areca catechu_**), hay **Nhân lang** (仁榔), hay **Tân lang** () là một loài cây trong họ Cau (_Arecaceae_) được trồng nhiều tại khu vực nhiệt
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**Trận tái chiếm Bataan** diễn ra từ ngày 31 tháng 1 đến 8 tháng 2-1945, giữa lực lượng Hoa Kỳ và quân du kích Philippines chống lại đế quốc Nhật Bản, là một phần trong
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
**Theodore Roosevelt III** (13 tháng 9 năm 1887 – 12 tháng 7 năm 1944), thường được biết đến là **Theodore** **Roosevelt Jr.**, **Ted** hoặc **Teddy**, là một chính trị gia, nhà kinh doanh và sĩ quan
nhỏ|phải|Bò trắng là sinh vật thần thoại trong [[Ấn Độ#Văn hoá|văn hóa Ấn Độ cũng như trong Phật giáo, người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo rất tôn sùng con bò và không giết mổ
nhỏ|phải|Một đôi bò kéo xe ở Sri Lanka nhỏ|phải|Cặp bò đang đeo ách đôi ở Án Độ **Bò cày kéo** hay **trâu bò cày kéo** là những con gia súc trong họ Trâu bò (chủ
nhỏ|phải|Hai con dê đang chiến đấu nhỏ|phải|Một trận vật bò (Jallikattu) ở Ấn Độ nhỏ|phải|Một cảnh chọi cừu **Chọi thú** hay **đấu trường động vật** là những trò huyết đấu (_blood sport_) hay _trò chơi
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
nhỏ|phải|[[Howard Carter kiểm tra quan tài trong cùng để xác ướp vua Tutankhamun]] **Xác ướp** là một người hoặc động vật có da với các cơ quan đã được bảo quản bằng cách tiếp xúc
Hình ảnh tái hiện một buổi trình diễn nhạc cụ truyền thống cổ của Trung Quốc (nhã nhạc cung đình [[nhà Thanh)]] nhỏ|Nhóm nghệ sĩ [[người Nạp Tây hòa tấu nhạc cụ cổ truyền]] **Những
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
Cá sấu sông Nin một trong các loài cá sấu thường tấn công con người Hàm răng sắc nhọn của một con [[cá sấu mõm ngắn]] **Cá sấu tấn công**, **cá sấu ăn thịt người**
thumb|304x304px|Cây sáo làm từ xương động vật [[thời kỳ đồ đá. Đây được xem như phát minh đầu tiên của loài người dùng xương động vật chế tác thành nhạc cụ|thế=]] Hình ảnh của một
thumb|Khu vực sinh thái Ấn – Mã **Khu vực sinh thái Ấn – Mã** hay **khu vực sinh thái Đông Dương** (tiếng Anh: _Indomalayan realm_) là một trong tám khu vực sinh thái. Nó trải
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Thịt chó**, còn được gọi là **thịt thơm**, là thịt có nguồn gốc từ chó. Trong lịch sử, việc tiêu thụ thịt chó đã được ghi nhận ở nhiều nơi trên thế giới. Vào thế
**Chi Xoài** (danh pháp khoa học: **_Mangifera_**) thuộc họ Đào lộn hột (Anacadiaceae), là những loài cây ăn quả vùng nhiệt đới. Người ta không biết chính xác nguồn gốc của xoài, nhưng nhiều người
**_Human Planet_** là một chương trình truyền hình phim tài liệu của Anh, dài 8 tập, được sản xuất bởi đài BBC cộng tác với kênh Discovery và BBC Worldwide. Chương trình miêu tả con
Thiết giáp chở quân **M-113**, hay còn gọi là thiết vận xa M-113, là một trong những loại xe bọc thép chở quân (_Armored Personel Carrier_ - **APC**) phổ biến nhất trong lịch sử chiến
**Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh** là một trường đại học đa ngành tại Việt Nam, chuyên đào tạo và nghiên cứu nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp. Trường
thumb|Cháy rừng ở tỉnh [[Mae Hong Son (tỉnh)|Mae Hong Son, tháng 3 năm 2010]] Tăng trưởng kinh tế đầy kịch tính của **Thái Lan** đã gây ra nhiều **vấn đề môi trường**. Đất nước này
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
**Yokosuka D4Y _Suisei**_ (tiếng Nhật: 彗星, **tuệ tinh**, nghĩa là sao chổi) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào hoạt động trên các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên
**Người Mã Lai** hay **Người Malay** (; chữ Jawi: ملايو) là một dân tộc Nam Đảo nói Tiếng Mã Lai chủ yếu sinh sống trên bán đảo Mã Lai cùng các khu vực ven biển
**Anphong Nguyễn Hữu Long** (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1953) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh, 2016 –
**_Cuộc đời của Yến_** là bộ phim điện ảnh Việt Nam phát hành năm 2016 do Đinh Tuấn Vũ đạo diễn, dựa trên kịch bản “Vàng – Đá” của biên kịch Hồ Hải Quỳnh. Bộ
**Penang** (tiếng Mã Lai: _Pulau Pinang_) là một bang tại Malaysia và được định danh theo đảo cấu thành nên bang. Bang Penang nằm ở vùng bờ biển tây bắc của Malaysia bán đảo, sát
**Cheo cheo** (tiếng Anh: **Chevrotain**) là các loài động vật có vú móng guốc chẵn nhỏ tạo nên **Họ Cheo cheo** (tên khoa học **Tragulidae**), và là các thành viên duy nhất còn sinh tồn
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
**Vối** hay còn gọi **trâm nắp**, **lá vối** (danh pháp khoa học: **_Syzygium nervosum_**) là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được A.Cunn. ex DC. miêu tả khoa
nhỏ|phải|Thu hoạch cà phê chồn nhỏ|phải|Những hạt cà phê chồn **Cà phê chồn** hay **cà phê phân chồn** là tên một loại cà phê đặc biệt, một thứ đồ uống được xếp vào loại hiếm
**Bò vàng phương Nam** hay còn gọi là **bò vàng** là một giống bò u da lông vàng được tìm thấy ở Nam Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan cũng như ở Philippines. Chúng
**Tăng huyết áp** (viết tắt là: **THA**) hay còn gọi là **cao huyết áp**, **lên cơn tăng-xông** (nguồn gốc: _Hypertension_ trong tiếng Pháp) là một tình trạng bệnh lý mạn tính, trong đó áp lực
**Thịt gà** là thực phẩm gia cầm phổ biến nhất trên thế giới. Do có chi phí thấp và dễ chăn nuôi hơn so với các động vật khác như trâu bò hoặc lợn, nên
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường