✨Trận Wœrth
Trận Wœrth theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là Trận Frœschwiller-Wœrth hay Trận Reichshoffen), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào ngày 6 tháng 8 năm 1870 giữa hai ngôi làng Wœrth và Frœschwiller thuộc địa phận Alsace ở miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự thống lĩnh của Thái tử Friedrich Wilhelm và sự chỉ đạo chiến lược của Tham mưu trưởng Leonhard von Blumenthal, 96.750 quân Phổ-Đức thuộc Binh đoàn số 3 đã đánh tan tác 48.550 quân của 5 sư đoàn Pháp do Thống chế Patrice de Mac-Mahon chỉ huy. Chiến thắng toàn diện này góp phần đem lại quyền làm chủ Alsace cho người Đức đồng thời mở đường cho họ tiến vào nội địa Pháp và theo đó uy hiếp Paris. Cùng ngày, các đơn vị thuộc các binh đoàn 1 và 2 của liên quân Đức cũng đánh thắng Quân đoàn II Pháp trong trận Spicheren trên biên giới Lorraine. Hai cuộc thất trận ngày 6 tháng 8 đã giáng đòn nặng nề vào tinh thần cũng như ý chí chiến đấu của quân tướng Pháp.
Trận đánh dữ dội này đã mang lại cho lực lượng dưới quyền MacMahon tổn thất đến non nửa binh lực của họ, trong số đó hơn 9.000 người bị bắt làm tù binh. Mặc dù Quân đoàn V Pháp dưới quyền tướng De Failly ở Bitche đã không kịp tiếp viện theo yêu cầu của MacMahon, tin tức về sự thảm bại của viên thống chế tại Wœrth-Frœschwiller buộc Quân đoàn V rời bỏ Bitche và cùng tàn binh Quân đoàn I cuống cuồng tháo chạy qua dãy núi Vosges theo hướng tây nam. Trong cơn chạy loạn, các đơn vị Pháp phải bỏ lại mọi nhu yếu phẩm của mình. Con đường triệt thoái của MacMahon và De Failly đã kéo theo sự chia cắt giữa 3 quân đoàn I, V và VII ở mạn nam với bộ phận chủ lực Binh đoàn sông Rhin khai thác tình hình đó, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ Helmuth von Moltke quyết định huy động hai binh đoàn số 1 và 2 tập trung giải quyết cánh quân chủ lực Pháp trong khi Friedrich Wilhelm tiếp trục truy đuổi cánh quân phía nam vào giai đoạn kế tiếp của chiến dịch.
Bối cảnh
Không lâu sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ-Đức Helmuth Graf von Moltke đã hội đủ các đạo binh hùng hậu của mình của mình trên một diện rộng từ Koblenz xuống Karlsruhe vào đầu tháng 8 năm 1870. Cánh trái của ông gồm Binh đoàn số 1 (50.000 quân) dưới quyền Thượng tướng Bộ binh Karl von Steinmetz và Binh đoàn số 2 (134.000 quân) dưới quyền Vương tử Friedrich Karl trên mạn bắc, cánh phải gồm 125.000 quân của Binh đoàn số 3 do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy ở phía nam. Cuối ngày 3 tháng 8, Moltke đánh điện cho Friedrich Wilhelm: "Chúng tôi dự định tiến hành một đợt tổng tiến công; ngày mai Binh đoàn 3 sẽ vượt biên giới tại Wissembourg". Chủ trương của vị Tổng tham mưu trưởng là tập kết Binh đoàn 2, với Binh đoàn 1 yểm trợ sườn phải, trên bờ đông sông Saar để cầm chân chủ lực Binh đoàn sông Rhin của Pháp dưới quyền Napoléon III trong khi Binh đoàn 3 (125.000 quân) tràn vào Alsace, đánh quỵ bộ phận quân Pháp tại đây rồi vượt dãy Vosges. Tiếp theo đó, Binh đoàn 2 sẽ tấn công quân chủ lực Pháp trong khu vực từ Saarbrücken đến Sarreguemines trong khi Binh đoàn 1 từ Tholey quành xuống phía nam bao vây sườn trái và Binh đoàn 3 vòng lên phía bắc để bọc kín sườn phải.
Chấp hành chỉ thị của Moltke, Thái tử Friedrich Wilhelm cùng tham mưu trưởng của mình là Trung tướng Leonhard von Blumenthal thúc quân tiến công Alsace vào buổi sáng ngày 4 tháng 8 năm 1870. Blumenthal hiểu rằng ông chỉ phải đương đầu với một lực lượng mỏng hơn của Pháp gồm Quân đoàn I (4 sư đoàn) dưới quyền Thống chế Patrice de Mac-Mahon tại khu vực biên giới và Quân đoàn VII (3 sư đoàn) dưới quyền tướng Felix Douay tại Belfort. Thêm vào đó, trong khi khoảng cách giữa 2 quân đoàn Pháp quá xa để có thể hỗ trợ lẫn nhau, các sư đoàn của Mac-Mahon lại bị dàn trải một cách tai hại. Trong trận đánh lớn đầu tiên của cuộc chiến, 50.000 quân Đức thuộc các Quân đoàn V, XI (Phổ) và II (Bayern) đã đè bẹp hàng phòng thủ của Sư đoàn 2 – đơn vị đi đầu của Quân đoàn I – gồm 8.600 quân Pháp do tướng Abel Douay chỉ huy ở thị trấn biên ải Wissembourg. Bản thân Douay bị thiệt mạng khi một xe đạn phát nổ và người kế nhiệm ông là tướng Jean Pélle phải rút tàn binh Sư đoàn 2 chạy về phía tây nam theo hướng Strasbourg, bỏ lại 1.092 người bị bắt làm tù binh cùng tất cả số đạn dược.
Ở đằng sau các đơn vị cánh phải, MacMahon đặt sư đoàn tàn tạ của Pelle và lữ đoàn thiết kỵ Michael (sư đoàn kỵ binh Xavier Duhesme), làm trừ bị. e sợ rằng đây là sự báo hiệu cho một cuộc tấn công quy mô lớn vào sườn quân đoàn ông. Tuy không hề có ý định tiến công, Esch xuống lệnh cho toàn bộ pháo binh của Quân đoàn V khai hoả để kìm chân trung quân Pháp và ngăn chặn cái mà ông tin là đòn tấn công của MacMahon. Sau khi được triển khai trên đoạn đường chính theo hai hướng bắc-nam, 14 khẩu đội pháo Phổ bắt đầu giã trận địa quân Pháp vào lúc 9h30. Chỉ có hai khẩu đội pháo Pháp là dám bắn trả, song hỏa lực pháo binh Pháp thiếu chính xác và kém hiệu quả đến mức các chỉ huy của họ phải nhanh chóng ra lệnh ngừng bắn để tiết kiệm đạn pháo.
Trước tình thế bất lợi, viên sĩ quan chỉ huy quân Phổ tại Wœrth khẩn cấp thỉnh cầu Kirchbach tăng viện. Kirchbach còn một sư đoàn trong tay mình, nhưng ông chưa được phép sử dụng nó. Tại tổng hành dinh Binh đoàn 3 ở Soultz, những tiếng súng trận càng lúc càng lớn từ mặt trận của Quân đoàn V đã gây cho Friedrich và Blumenthal hoảng hốt. Họ sai sứ giả mang đến cho Kirchbach một mệnh lệnh cấp bách yêu cầu viên tướng "chấm dứt cuộc chiến đấu, và tránh xa tất cả những gì có thể gây nên một trận chiến mới". Nhưng thượng lệnh đến quá trễ để có thể các lực lượng Phổ trên chiến trường có thể tổ chức triệt thoái. Thêm vào đó, vị Tướng tư lệnh Quân đoàn V đã phớt lờ thượng lệnh. Ông thông báo cho quân Bayern ở bên phải rằng ông đang tiếp tục tấn công và thỉnh cầu họ làm điều tương tự. Đồng thời, Kirchbach nhận được những lời hứa hẹn giúp sức từ Quân đoàn XI dưới quyền Bose, một viên tướng được sử gia Geoffrey Wawro đánh giá là hăng máu hơn cả Kirchbach. Với niềm tin được củng cố, Kirchbach đánh điện cho Thái tử để báo cáo về quyết định tấn công bằng sư đoàn trừ bị và sự kỳ vọng của ông vào kết quả tốt nhất.
Quân Đức thắng thế
Một tiếng đồng hồ trước đó, ngạc nhiên do tiếng súng trận càng lúc càng lớn thay vì lắng xuống theo mệnh lệnh của mình, Thái tử Friedrich Wilhelm cùng Tham mưu trưởng Blumenthal đã thân hành đến chiến trường. Nhận thấy việc hủy bỏ trận chiến là hoàn toàn bất khả thi, Thái tử đành chấp nhận tình hình. Ông truyền lệnh cho tướng Von der Tann mang Quân đoàn I Bayern đến yểm trợ sườn phải của quân đoàn Kirchbach. Từ trước đó, tướng Von Werder đã điều Sư đoàn Dã chiến Württemberg đến hỗ trợ cánh trái của Bose. Tình hình đó đã tạo thuận lợi cho quân Phổ kẹp quân Pháp bằng hai gọng kìm lớn (mỗi gọng kìm là 4 vạn quân) theo như kế hoạch mà Thái tử và Blumenthal đã đề ra. Hai người đã ra huấn dụ cho các chỉ huy cấp quân đoàn của Binh đoàn 3 áp dụng kế hoạch này. Nhưng do Kirchbach từ trước đã điều sư đoàn trừ bị của ông tràn qua hai làng Wœrth và Spachbach để đánh thẳng vào phòng tuyến quân Pháp, vị chỉ huy năng động của Quân đoàn V không thể hoãn tấn công nhằm chờ đợi đến khi đối phương bị bọc sườn từ hai hướng theo thượng lệnh.
Sau thảm họa Wœrth-Frœschwiller, MacMahon đã thành thực gửi đến Hoàng đế một bản báo cáo về tình hình hiện thời của quân ông: "Tôi đã thua một trận đánh; chúng tôi đã chịu nhiều thiệt hại về người và của. Cuộc triệt binh hiện đang được tiến hành, một phần về Bitche, một phần về Saverne. Tôi sẽ cố gắng đến địa điểm này để chấn chỉnh quân lực". Hiểu rằng việc rút qua Bitche để hội với chủ lực Binh đoàn sông Rhin sẽ nhét cánh quân của mình vào một hẻm núi khó thể phòng bị, MacMahon hạ lệnh rút chạy qua Ingwiller và Saverne lên thượng lưu sông Moselle về hướng tây-nam. Nhưng các lực lượng dưới quyền ông đã trở nên rải rác và nhất thời chưa thể được kiểm soát. Khung cảnh hỗn loạn bao trùm những con đèo và đường mòn của vùng núi Vosges trong suốt đêm với những mớ tàn quân, ngựa chiến, xe goòng và đại bác lẫn lộn của cả ba quân đoàn I, V và VII. – 6/7 trong số này thuộc về hai quân đoàn Phổ. Nhưng MacMahon đã thiệt mất phân nửa lực lượng quân đoàn mình. Số quân Pháp bị giết và bị thương lên đến 11.000 người và phần lớn con số này là do pháo binh Đức gây nên. Hãi hùng trước sự xuất hiện của quân Đức từ các bên sườn và đằng sau, 9.212 sĩ quan và binh lính Pháp còn lành lặn đã nộp mình cho quân Đức (trước sự phấn khởi của các binh sĩ Đức, nhiều tù binh Pháp sau trận đánh đã gọi Napoléon III là "mụ già" và MacMahon là "con lợn" - le cochon).
Trung tướng Bose đã hai lần bị thương trong trận đánh và phải giao lại quyền chỉ huy Quân đoàn XI Phổ cho Trung tướng Hermann von Gersdorff. Về phía Pháp, cuộc huyết chiến ở Froeschwiller đã lấy mạng tướng Raoult – Tư lệnh Sư đoàn 3, tướng Colson – Tham mưu trưởng Quân đoàn I – cùng phần lớn các sĩ quan tham mưu quân đoàn này.
Tuy nằm ngoài dự định của ông, trận Wœrth là một chiến thắng toàn diện cho vị Thái tử nước Phổ. Thắng lợi này đã khai lối cho Binh đoàn 3 vượt dãy Vosges tiến về nội địa Pháp và Paris, đồng thời dọn đường cho họ đánh xuống Strasbourg – thủ phủ vùng Alsace – ở mạn nam.
Mặc dù chiến thuật nói trên chưa đủ để hạn chế đáng kể con số tổn thất của phía Phổ-Đức, đại thắng của họ đã được quyết định bởi hai yếu tố then chốt của chiến tranh hiện đại: Buổi sáng ngày 7 tháng 8, ông truyền lệnh cho toàn bộ quân lực rút về Châlons-sur-Marne, để lại mọi quyền chủ động chiến lược trong tay Bá tước von Moltke. Nhưng, trong khi con đường tháo chạy về hướng tây-nam của MacMahon và Failly sau trận Wœrth đã mở rộng khoảng trống giữa 3 quân đoàn I, V, VII ở phía nam và 5 quân đoàn chủ lực Pháp trên mạn bắc, Frossard lại tự ý quyết định rút quân từ Sarreguemines về Metz mà không hỏi ý Napoléon khi hay tin MacMahon đại bại. Cuối ngày 7 tháng 8, sau khi xác định lại tình hình, hoàng đế Pháp đành hạ lệnh cho cánh quân phía nam triệt thoái về Châlons để thành lập một binh đoàn mới do MacMahon chỉ huy, còn chủ lực Binh đoàn sông Rhin lui về tập kết tại pháo đài Metz rồi rút tới Châlons theo đường Verdun để hội quân với MacMahon. Chỉ sau một tuần lễ chiến đấu, quân đội Pháp đã hoàn toàn triệt thoái. Đến ngày 12 tháng 8, Napoléon trao quyền chỉ huy Binh đoàn sông Rhin cho Thống chế F. A. Bazaine, nguyên Tư lệnh Quân đoàn III. Trong vùng núi, quân Bayern và Württemberg đã vây chiếm một số pháo đài đơn lẻ của Pháp như Lichtenberg và Marsal. Đến ngày 12 tháng 8, Binh đoàn 3 đã ra được khỏi dãy Vosges và nối lại liên lạc với Binh đoàn 2 trên mạn bắc. Vào ngày 16 tháng 8, Bộ Tư lệnh Binh đoàn 3 thiết lập tổng hành dinh tại Nancy để yểm trợ các hoạt động chủ lực của các binh đoàn 1 và 2 đồng thời chuẩn bị ứng phó với mọi tình huống. Sau khi hai binh đoàn Phổ-Đức giành thắng lợi trong các trận Borny-Colombey (14 tháng 8), Mars-la-Tour-Vionville (16 tháng 8), Gravelotte-St. Privat (18 tháng 8) và cô lập hoàn toàn Bazaine trong pháo đài Metz, tướng Moltke bắt đầu xoáy trọng tâm sang MacMahon. Để lại Binh đoàn 1 và 4 quân đoàn của Binh đoàn 2 vây hãm Metz, ông rút 3 quân đoàn khỏi biên chế Binh đoàn 2 để thành lập Binh đoàn sông Maas do Thái tử Albert của Sachsen chỉ huy, và truyền lệnh cho Binh đoàn sông Maas cùng với Binh đoàn 3 tiến về Châlons để dứt điểm chiến dịch.
Về phía mình, MacMahon đã có mặt cùng Napoléon ở Châlons từ ngày 16 tháng 8. Sau khi được tăng cường lực lượng, hai ông thành lập Binh đoàn Châlons vào ngày 21 tháng 8. Dưới sức ép của dư luận Pháp, Napoléon và MacMahon mang quân đến Rheims và sau đó đến Montmédy trong một nỗ lực nhằm đi vòng qua sườn của Moltke và giải vây cho Metz. Nhưng tướng Moltke đã phát giác được cuộc hành quân này vào ngày 25 tháng 8 và ông điều các đạo quân hùng mạnh của hai thái tử Bắc Đức rẽ sang hướng tây bắc để đuổi bắt đối phương. Ngày 30 tháng 8, quân của hai thái tử đã bắt kịp và đánh tan Quân đoàn V Pháp ở Beaumont, buộc MacMahon phải rút quân vào Sedan. Tại đây, 20 vạn quân Đức đã vây kín Binh đoàn Châlons vào ngày 1 tháng 9 năm 1870. Hôm sau, Napoléon III, MacMahon cùng toàn bộ lực lượng của mình ra đầu hàng. Chẳng bấy lâu sau, Paris rơi vào vòng vây của hai vị thái tử Đức.