✨Tống Lê Chân

Tống Lê Chân

Tống Lê Chân là một địa danh thuộc địa bàn 2 xã Minh Đức và Minh Tâm, đều thuộc huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Nơi đây từng được biết đến như một căn cứ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nổi tiếng với sự kiện tiểu đoàn 92 Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa cầm cự 510 ngày trong sự phong tỏa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ ngày 10 tháng 5 năm 1972 và rút hầu như nguyên vẹn lực lượng khỏi căn cứ này vào ngày 11 tháng 4 năm 1974. Sự kiện này được phía Việt Nam Cộng hòa tuyên tuyền như một chiến tích nổi bật.

Nguồn gốc tên gọi

Đây là vùng đất gần biên giới Việt Nam - Campuchia, vì vậy có rất nhiều người địa phương gốc Khmer. Họ gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là nơi có nước. Nơi đây chính là nơi giao nguồn của hai nhánh sông nhỏ thượng nguồn của sông Sài Gòn, vì vậy có tên gọi như trên.

Đặng Hưng Long, một thiếu tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa là người đã phiên âm chữ Tonlé Tchombe thành tiếng Việt là Tống Lê Chân.

Theo những bô lão trong vùng thì tên gọi này đã có từ năm 1956, khi Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách dân tộc chủ nghĩa, đã cho thay đổi và Việt hóa nhiều địa danh trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, như Bù Đốp đổi thành Bố Đức, B'lao đổi thành Bảo Lộc...và Tonlé Tchombe đã trở thành Tống Lê Chân. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng bởi bất kỳ tư liệu nào.

Tiền đồn quân sự trong chiến tranh

Nguyên ủy, từ tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam đã cho đặt một tiền đồn quân sự tại đây nhằm phòng ngừa các nguy cơ chống chính phủ từ lực lượng vũ trang của giáo phái Cao Đài vốn đang đóng tại Tây Ninh. Vị trí này kiểm soát giao điểm của nguồn nước, đồng thời có thể kiểm soát một tuyến giao thông về Bình Long, một cửa ngõ vào thành phố Sài Gòn.

Cũng từ những vị trí tương tự, Quân lực VNCH đã tấn công tiêu diệt quân Cao Đài trong thời gian diễn ra chiến dịch Nguyễn Huệ. Thắng lợi của chiến dịch này đã đặt dấu kết thúc cho các lực lượng vũ trang của các giáo phái, củng cố thế đứng chính trị của Ngô Đình Diệm. Bốn tháng sau đó, ông thực hiện việc phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và trở thành Tổng thống, tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa.

Sau năm 1956, tiền đồn này hầu như không được sử dụng nữa. Từ năm 1961, bộ phận CIA tại Sài Gòn đã hỗ trợ thực hiện chương trình CIDG (viết tắt từ _Civilian Irregular Defense Group_), hay còn gọi là chương trình Dân sự Chiến đấu, hay Xít-gi, nhằm xây dựng lực lượng biệt động nằm ngoài quân đội chính phủ Nam Việt Nam. Năm 1967, một trại huấn luyện đồng thời là căn cứ phòng thủ tại Tống Lê Chân được xây dựng. Chỉ huy trưởng đầu tiên là Thiếu tá Đặng Hưng Long.

Căn cứ Tống Lê Chân sau khi được xây dựng trong địa bàn thuộc Vùng III Chiến thuật. Đây là một vị trí quân sự khá quan trọng, nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc 15 km về hướng Tây Nam và mũi nhọn của khu Mỏ Vẹt 13 km về hướng Đông Nam. Vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Campuchia, là những bàn đạp xuất phát của Quân Giải phóng từ hướng Campuchia vào Tây Ninh. Dưới chân căn cứ là con đường 246, trục giao liên Nam - Bắc giữa căn cứ Trung ương Cục miền Nam với vùng kiểm soát Tam giác sắt của quân Giải phóng. Căn cứ còn nằm trong hệ thống căn cứ liên hoàn canh phòng hướng biên giới Việt Nam - Campuchia và từng là một trong những bàn đạp hành quân của quân Việt Nam Cộng hòa trong chiến dịch vượt biên giới năm 1972.

Tuy nhiên, khi chưa kịp an vị, ngày 7 tháng 8 năm 1967, các đơn vị thuộc Trung đoàn 165, Sư đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam đã thực hiện cuộc tập kích trại Tống Lê Chân. Tuy nhiên, lực lượng tấn công sớm bị lộ, và quân phòng thủ kịp thời tăng cường lực lượng và với sự hỗ trợ tối đa của các trận địa pháo cùng các cuộc không kích của Mỹ đã đánh bật lực lượng tấn công, gây cho họ tổn thất nặng nề với 152 xác chết tại chỗ và 2 tù binh... Trận đánh này ít được hai phía Việt Nam nhắc tới.

510 ngày trong vòng phong tỏa

Năm 1970, thực hiện kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh", các đồn trại biên phòng được chuyển sang cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa quản lý. Cũng trong năm đó, Lực lượng Dân sự Chiến đấu được đổi tên thành Biệt động quân Biên phòng.

Trong chiến cuộc năm 1972, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở chiến dịch Nguyễn Huệ tấn công vào Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc. Sau khi chiếm được Lộc Ninh ngày 7 tháng 4 năm 1972, Sư đoàn 5 Quân giải phóng hành quân tiến theo Quốc lộ 13 xuống phía Nam, uy hiếp mặt Bắc thị xã An Lộc. Sư đoàn 7 Quân giải phóng xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, đi vòng qua An Lộc, tiến xuống phong tỏa Quốc lộ 13 ở phía Nam An Lộc, tức là con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị xã này, đồng thời uy hiếp các căn cứ biên phòng, phối hợp với Đoàn C30B để cầm chân Sư đoàn 25 bộ binh Việt Nam Cộng hòa tại Tây Ninh, ngăn cản không cho tiếp viện An Lộc. Sư đoàn 9 Quân giải phóng là lực lượng chủ lực tấn công An Lộc, cũng xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, tiến xuống và tấn công An Lộc từ phía Tây. Các căn cứ tiền đồn biên phòng như Thiện Ngôn, Katum, Bổ Túc, Bù Gia Mập lần lượt bị bức rút trước áp lực của đối phương. Riêng căn cứ Tống Lê Chân còn lại bơ vơ giữa vùng kiểm soát của 4 sư đoàn đối phương sau khi Lộc Ninh bị chiếm giữ và thị xã An Lộc đã bị bao vây.

Về cơ bản chiến dịch, các chỉ huy Quân giải phóng chủ trương phong tỏa, uy hiếp và bức rút các căn cứ biên phòng, vì vậy họ đã không dùng quân chủ lực để tấn công tiêu diệt. Tuy nhiên, căn cứ Tống Lê Chân không rút lui mà vẫn duy trì trạng thái phòng ngự với lực lượng tiểu đoàn 92 Biệt động quân Biên phòng, do Thiếu tá Lê Văn Ngôn làm tiểu đoàn trưởng, với quân số khoảng 300 người....

Trại giam Tống Lê Chân

Sau năm 1975, trại Tống Lê Chân được hoán cải làm trại tù cải tạo. Tháng 11 năm 2007, trại Tống Lê Chân được nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng ba

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Lê Chân** là một địa danh thuộc địa bàn 2 xã Minh Đức và Minh Tâm, đều thuộc huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Nơi đây từng được biết đến như một căn cứ
**Cửa khẩu Tống Lê Chân** là cửa khẩu tại vùng đất xã Tân Hòa huyện Tân Châu tỉnh Tây Ninh, Việt Nam . Cửa khẩu Tống Lê Chân thông thương với **cửa khẩu Sa Tum**
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức
Tượng Nữ tướng Lê Chân ở Hải Phòng. **Lê Chân** (; 20 - 43) là một trong những nữ tướng xuất sắc của Hai Bà Trưng. Bà được coi là người có công khai khẩn
Được xây dựng theo mô hình Bệnh viện-Khách sạn cao cấp 23 tầng đầu tiên ở Hải Phòng và khu vực vùng duyên hải Bắc bộ tại 124 Nguyễn Đức Cảnh -Lê Chân- Hải Phòng,
**Lê Chân** là một quận cũ nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý Quận Lê Chân nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng, có vị trí địa lý:
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
thumb|alt=Cân thăng bằng trống|Hai đĩa cân thăng bằng này chứa không đồ vật, chia ra làm hai nhóm bằng nhau. Không là số chẵn. Nói theo cách khác, _tính chẵn lẻ_ của nó—đặc tính của
**Lê** () là một họ của người Việt Nam và Trung Quốc. Họ Lê phổ biến ở miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Kông). Họ "Lê" của người Trung Quốc (chữ Hán: 黎; bính
Mạn-đà-la **Mật Tông** (zh. 密宗 _mì-zōng_) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm
**Lê Khắc Xương** (chữ Hán: 黎克昌; 1440 – 1476) là một vị hoàng tử triều Hậu Lê, con vua Lê Thái Tông trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Lê Khắc Xương là hoàng
nhỏ|phải|Một con bò sữa được chăn thả trên thảo nguyên tại Đức nhỏ|phải|Một giống [[bò Hà Lan, đây là gia súc cao sản chuyên cho sữa]] **Chăn nuôi gia súc lấy sữa** là việc thực
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
Quyền Giáo tông **Lê Văn Trung** (1876-1934), thánh danh là **Thượng Trung Nhựt**, là một trong những nhà lãnh đạo tôn giáo Cao Đài, có những đóng góp quan trọng trong giai đoạn hình thành
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ
**Lê Bảng**(黎榜) là một vị vua nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Do được lập lên ngôi và phế truất trong thời gian loạn lạc ngắn ngủi, ông ít được nhắc tới trong
**Lê Nhân Tông** (chữ Hán: 黎仁宗 28 tháng 5 năm 1441 – 25 tháng 10 năm 1459) tên húy là **Lê Bang Cơ** (黎邦基), là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Lê nước
**Lê Do** (Chữ Hán: 黎槱; Hán Việt: **_Lê Dữu_** ?-1519) là một vị hoàng đế nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Do được lập lên ngôi và thất bại trong thời gian loạn
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
**Lê Niệm** (chữ Hán: 黎念, ? - 1485), là nhà chính trị, quân sự cao cấp của Đại Việt thời Lê. Ông quê ở xã Duy Trinh, huyện Thuần Hựu, là con trai của tướng
nhỏ|phải|Một con [[bò đực thuộc giống bò thịt được chăn nuôi để lấy thịt bò]] nhỏ|phải|Một con [[bò sữa đang được chăn thả để lấy sữa]] nhỏ|phải|Một con [[bò cày kéo đang gặm cỏ khô
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
nhỏ|phải|Một con [[bò sữa tại trang trại ở Radevormwald nước Đức, người ta chăn thả bò kiểu luân canh, các bãi chăn được quây hàng rào, gia súc chỉ được gặm cỏ trên các bãi
**Lễ cưới** (;) là một nghi lễ của đồng bào dân tộc Lự ở Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar, Lào và Thái Lan. Em lấy vợ, anh em của vợ thuộc bàng hệ chéo hai,
Tông Đơ Chấn Viền Giá Shop Cam Kết Bao RẻGiá Lẻ= Giá Sỉ Khách Vui Lòng Không Mặc Cả.Mọi Chi Tiết Thắc Mắc Xin Liên Hệ Shop
nhỏ|Chân phước [[Anrê Phú Yên]] nhỏ|phải|thẳng|Lễ phong chân phước của Giáo hoàng Gioan Phaolô II **Chân phước** hay **chân phúc**, còn gọi là Á **Thánh** (Latinh: _beatus_) là một danh hiệu trong Giáo hội Công
**Lê Thì Hiến** (chữ Hán: 黎時憲, 1609-1674) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp ### Mặt trận phía nam Lê Thì Hiến người làng Phú Hào huyện Lôi
**Chăn thả gia súc quá mức** (_Overgrazing_) là hiện tượng xảy ra khi thảm thực vật tiếp xúc với việc chăn thả thâm canh trong thời gian dài, hoặc không có đủ thời gian để
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
Trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn **cuối triều Lê sơ** (1516 – 1526) tương ứng với các triều vua Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng xảy ra khủng hoảng kinh
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là