✨Tôm tít

Tôm tít

Tôm tít, tôm tích, tôm thuyền, bề bề hay tôm búa (do một số loài có càng tiến hóa thành dạng chùy), là tên được dùng để gọi nhóm giáp xác biển thuộc bộ Tôm chân miệng (Stomatopoda). Chúng không phải tôm cũng chẳng phải bọ ngựa nhưng chúng có tên trong tiếng Anh là Mantis shrimp hay tôm bọ ngựa vì chúng giống cả hai, với cặp càng giống của bọ ngựa. Tôm tít có mặt rộng rãi tại những vùng biển ôn đới và nhiệt đới trên toàn cầu. Bộ Tôm chân miệng bao gồm khoảng trên 400 loài và tất cả chúng đều nằm trong phân bộ Giáp đơn (Unipeltata). Bộ này có nhiều họ, trong đó họ Squillidae là họ có nhiều loài được dùng làm thực phẩm tại Việt Nam.

Người Assyria cổ gọi tôm tít là châu chấu biển. Tại Úc, chúng có tên là "kẻ giết tôm" (Prawn killers) và ngư dân Âu Mỹ đặt cho chúng cái tên "kẻ xé ngón cái" (Thumb splitters) do chúng có thể kẹp rách da ngón tay nếu không thận trọng khi gỡ chúng khỏi lưới, có trường hợp hiếm hoi, tôm tít có thể làm vỡ kính bể nuôi cá cảnh với một cú đánh bằng đôi càng.

Tôm tít được nuôi làm vật cảnh trong bể cá cảnh nước mặn và việc nuôi cảnh này có thể đóng vai trò nhất định trong quá trình nghiên cứu đời sống còn nhiều bí ẩn của tôm tít. Tuy nhiên, nhiều người nuôi cảnh khác lại cho chúng là vật hại vì chúng có thể đục lỗ trong các bộ xương san hô chết và trốn trong đó; những mẩu san hô này thường được thu thập vì chúng rất hữu dụng trong các bể cá cảnh. Vì vậy, chuyện tôm tít còn sót trong mẩu san hô nhào ra tấn công các loài cá cảnh, tôm cảnh,... là chuyện thường xảy ra. Đồng thời chúng rất khó bắt khi đã nằm trong bể và có trường hợp tôm tít đã đập vỡ thành của các bể cá thủy tinh. Giáp đầu của tôm tít chỉ bao phủ phần sau đầu và 4 đốt đầu tiên của ngực. Màu sắc thân thay đổi tùy loài từ nâu, xanh lục, đen nhạt đến hồng, vàng nhạt; một số loài sống trong vùng biển nhiệt đới còn có màu sắc rực rỡ để được nuôi trong các bể cá. Tôm tít có 8 đôi chân, trong đó 5 đôi đầu có càng, sau đó là những đôi chân bơi. Mắt tôm tít có những cấu trúc đặc biệt, được xem là phức tạp nhất trong giới động vật. Mắt và đôi ăng ten đầu tiên được gắn nơi những đoạn di động riêng biệt tại đầu tôm. Mắt tôm tít giúp chúng phân biệt được những vật thể chung quanh như những rạng san hô, những con mồi, kể cả mồi có thân trong suốt.

Đa số các loài tôm tít sinh sống tại những vũng, hố cạn dọc các bờ biển thuộc vùng nhiệt đới và ôn đối (vùng Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương bao gồm khu vực giữa Phi châu qua đến Hawaii) tại những vùng triều giữa. Chúng sống vùi, ẩn nấp trong hang hay kẽ đá. Chúng chỉ chui ra khỏi nơi trú ẩn để tìm mồi và tùy loài có thể sinh hoạt ban ngày hoặc ban đêm. Tôm tít thuộc loại 'tôm dữ', ăn thịt sống, săn cá nhỏ, nhuyến thể và giáp xác nhỏ hơn. Chúng dùng đôi chân thứ nhì, to (thường gọi là càng) để bắt mồi. Mặc dù chúng là loài săn mồi phổ biến ở nhiều vùng nước nông nhiệt đới và cận nhiệt, giới khoa học chưa tìm hiểu được nhiều thông tin về tôm tít vì loài sinh vật này chủ yếu chỉ chui rúc trong các hang hốc chứ ít chịu ló mặt ra ngoài.

Càng

Các loài tôm tít được phân thành 2 nhóm chính với tiêu chuẩn phân loại dựa theo kiểu càng của chúng: trái|nhỏ|[[Squilla mantis với càng dạng giáo]]

*Tôm giáo* (spearer) với càng có phần phụ rất nhọn và nhiều ngạnh, nhìn giống như càng của bọ ngựa, dùng để đâm và xé mồi. Tôm búa** (smasher) với càng có dạng chùy và phần đầu nhọn của càng có cấu trúc thô sơ hơn (nhưng vẫn khá sắc nhọn và thường xuyên được dùng để tỉ thí với các con tôm khác). Cấu trúc càng phản ánh lối săn mồi của chúng: dùng chiếc chùy to và cứng để nện con mồi và đập vỡ thức ăn. Phần phía trong của đầu càng có thể có một bên lưỡi sắc nhọn và dùng để cắt đứt con mồi khi nó bơi.

Cả hai loại tôm đều có chiến thuật tấn công là bung càng ra thật nhanh và đập càng thật mạnh vào con mồi. Cú đập có thể gây ra thương tích nghiêm trọng cho con mồi, kể cả khi con mồi có kích thước lớn hơn tôm tít rất nhiều. Đối với tôm búa, càng của chúng được vung ra với tốc độ nhanh khủng khiếp với gia tốc lên đến 10.400 'g' (102.000 m/giây2 hay 335.000 ft/giây2) và vận tốc 23 m/giây từ khởi đầu bất động, bằng với gia tốc của một viên đạn 0,22 calibre. Vì vung càng quá nhanh, tôm búa có thể tạo ra những bong bóng khí nằm trong khoảng không gian giữa càng và bề mặt chúng đánh vào. Cũng chính vì lý do này, dù tôm búa có đập hụt đi nữa thì áp suất do bong bóng khí gây ra đủ để làm choáng váng hoặc thậm chí giết chết con mồi.

Đồng thời, việc vỡ các bong bóng khí trên cũng tạo ra hiện tượng phát quang do âm thanh (Sonoluminescence). Điều này sẽ sản sinh một lượng rất nhỏ ánh sáng nhưng có nhiệt độ rất cao (có thể lên tới vài nghìn độ K) trong bong bóng khí - mặc dù các ánh sáng và nhiệt độ này chỉ tồn tại trong một thời gian cực ngắn và có mức độ rất yếu đến mức chỉ có thể được phát hiện bởi các thiết bị tối tân. Hiện tượng này có lẽ không có ảnh hưởng gì về sinh học tới con mồi mà chỉ là các tác dụng phụ của việc vung càng quá nhanh. Tôm pháo cũng sản sinh ra hiện tượng này theo cách tương tự.

Tôm búa sử dụng kỹ năng này để tấn công các con mồi có vỏ cứng như ốc, cua, sò, hàu; chiếc càng dạng chùy của chúng đủ khỏe để phá vỡ lớp vỏ cứng của chúng. Trong khi đó tôm giáo thì ưa các loại mồi mềm hơn như cá vì chiếc càng sắc nhọn và nhiều gai của chúng cỏ thể dễ dàng đâm và xé toạc những con mồi loại này.

Mắt và thị giác

nhỏ|Loài tôm tít [[Lysiosquillina maculata với đôi mắt có cuống dài]] nhỏ|Loài [[tôm tít công (Odontodactylus scyllarus) ở biển Andaman ngoài khơi Thái Lan]] nhỏ|trái|Mắt được chia làm 3 phần của loài [[Pseudosquilla ciliata]]

Mắt của tôm tít là mắt kép, trong đó đáng chú ý là 6 hàng mắt con ở khu vực "đường giữa". 4 hàng mắt mang 16 loại thụ thể ánh sáng khác nhau với 12 loại thụ thể nhằm nhận diện màu sắc và bốn loại đảm nhận nhiệm vụ của bộ lọc màu. Thị giác của tôm tít rất tốt, chúng có thể nhìn thấy ánh sáng phân cực và có được thị giác màu sắc siêu phổ. Mắt kép của chúng nằm trên các cuống dài và mỗi cuống mắt có khả năng vận động độc lập với cuống còn lại. Chúng được đánh giá là mắt kép phức tạp nhất trong toàn bộ giới Động vật. Tôm tít có năng phân tích theo chuỗi và phân tích song song các kích thích về thị giác.

Mỗi mắt kép cấu thành từ khoảng 1 vạn mắt con được ghép vào nhau. Mỗi mắt kép bao hàm hai bán cầu phẳng tách biệt nhau bởi 6 hàng mắt con chuyên hóa, 6 hàng này được gọi là "đường giữa" (midband) chia mắt ra làm 3 vùng. Kết cấu này giúp tôm tít có thể nhìn thấy các sự vật bằng 3 phần khác nhau của cùng 1 mắt. Nói cách khác, mỗi mắt kép có thể tập trung chú mục vào một vật thể với không gian 3 chiều khác nhau (trinocular vision) và có khả năng nhận thức bề sâu. Bán cầu trên và dưới của mắt chủ yếu được dùng trong việc nhận diện hình dạng và chuyển động (chứ không phải màu sắc) giống như nhiều loài giáp xác khác.

Hàng 1-4 của đường giữa có vai trò chuyên nhận diện màu sắc, từ các tia sáng có bước sóng thuộc vùng tử ngoại đến các tia sáng màu có bước sóng lớn hơn; tuy nhiên hiện chúng vẫn được cho rằng không có khả năng nhận biết tia hồng ngoại. Các nhân tố thị giác ở ba hàng này có tám loại sắc tố thị giác và thể que được chia làm 3 lớp sắc tố, mỗi lớp nhận diện những tia sáng có bước sóng khác nhau. 3 lớp ở hàng 2 và 3 được phân tách bởi các bộ lọc màu (hay bộ lọc trong thể que) có thể chia thành bốn loại khác nhau, mỗi hàng hai loại. Kết cấu của nó giống như một chiếc bánh kẹp nhiều tầng, với tổng cộng 2 bộ lọc màu (thuộc hai loại khác nhau) là "nhân", kẹp bởi 3 lớp "vỏ bánh" là lớp sắc tố. Hàng 5 và 6 cũng có nhiều lớp, nhưng chỉ có 1 lớp sắc tố thị giác (loại thứ 9) và có đảm nhận vai trò trong mảng thị lực phân cực hóa. Chúng có thể nhận diện nhiều mặt phẳng khác nhau của ánh sáng phân cực. Loại sắc tố thị giác thứ 10 tọa lạc ở 2 bán cầu mắt nằm 2 bên đường giữa.

Đường giữa chỉ bao phủ một phần rất nhỏ của mắt, vào khoảng 5-10 độ của góc nhìn. Tuy nhiên, giống như các loài giáp xác khác, mỗi mắt của tôm tít được gắn trên một cuống dài, có thể vận động độc lập với mắt kia và có thể xoay sang bất kỳ hướng nào (lên tới ít nhất 70 độ) bởi 8 cơ cầu mắt chia làm 6 nhóm chức năng. Bằng việc sử dụng các cơ này để xoay đảo mắt, tôm tít có thể di chuyển đường giữa sang nhiều hướng khác nhau và "quét" hết các cảnh vật xung quanh, giúp tôm nhận biết được thêm nhiều thông tin về hình dạng, diện mạo và khung cảnh mà hai phần bán cầu mắt còn lại không thể nhận diện được. Tôm tít cũng có thể theo dõi được các vật thể chuyển động nhanh bằng việc dao động mắt thật nhanh theo quỹ đạo lớn khi hai mắt cử động độc lập với nhau. Nói chung, ở đây, qua việc tận dụng nhiều kỹ năng khác nhau, bao gồm cả những cử động liếc mắt nhanh, trên thực tế đường giữa của mắt tôm tít có thể quét qua một vùng không gian rất rộng lớn.

Một số loài tôm tít có ít nhất 16 loại quang thụ thể khác nhau chia làm 4 nhóm (độ nhạy phổ của chúng sau đó sẽ được điều chỉnh thêm một bước nhờ các bộ lọc màu ở võng mạc) với 12 trong số đó có vai trò trong việc phân tích màu sắc ở các bước sóng khác nhau (trong đó có bốn loại chuyên dùng để nhận biết ánh sáng tử ngoại) và bốn loại còn lại có vai tròng trong việc phân tích ánh sáng phân cực. Kết cấu này khá là phức tạp so với con người khi loài người chỉ có bốn loại sắc tố thị giác và 3 trong số đó có chức năng nhận diện màu sắc. Thông tin về thị giác rời võng mạc của tôm tít sẽ được truyền đi theo nhiều dòng dữ liệu song song dẫn tới hệ thận kinh trung ương, điều này sẽ giảm đáng kể yêu cầu về phân tích ở cấp độ cao hơn.

Ít nhất hai loài tôm tít được ghi nhận là có khả năng nhận biết ánh sáng phân cực tròn và trong một số trường hợp, bản phần tư sóng sinh học của chúng hoạt động đông đều hơn trong toàn bộ phổ thị lực so với bất cứ dụng cụ thị giác phân cực nào mà con người chế tạo hiện nay. The application of which it is speculated có thể được ứng dụng vào việc chế tạo một phương tiện truyền thông thị giác hoạt động tốt hơn cả thế hệ hiện tại của công nghệ đĩa Blu-ray.

Loài tôm tít Gonodactylus smithii là loài sinh vật duy nhất được biết đến có khả năng nhận biết đồng thời 4 thành tố phân cực tuyến tính và 2 thành tố phân cực tròn của thông số Stokes, điều này khiến nó có được sự miêu tả đầy đủ về phân cực. Vì vậy, loài tôm tít này được tin là có thị lực phân cực thuộc loại tối ưu.

Nguyên do của thị giác phát triển cao ở tôm tít

Thị giác cực tốt tôm tít giúp chúng có thể nhận diện và phân biệt được nhiều loại san hô cũng như nhiều loại mồi khác nhau (vốn thường trong suốt hay trong mờ) cũng như nhận diện được các loài săn mồi có hại cho chúng như cá nhồng, vốn có vảy phát ra ánh sáng mờ mờ ảo ảo. Đồng thời, động tác vung càng tấn công cực nhanh của tôm tít đòi hỏi việc xác định khoảng cách phải cực kì chính xác và vì vậy, đòi hỏi về sự phát triển cao của khả năng nhận thức bề sâu.

Đồng thời, có một điều đáng chú ý là những loài có thị giác phát triển cao cũng thường là những loài có cơ thể mang màu sắc sặc sỡ, điều này cho thấy xu hướng tiến hóa của thị giác màu sắc giống như là ở loài công.

Trong quá trình tìm kiếm bạn tình, tôm tít phát quang rất mạnh mẽ và bước sóng của các tia sáng do chúng phát ra phù hợp với dải phổ mà mắt chúng nhận biết được.

Trong những loài tôm tít "chung thủy", thời gian "kết hôn" có thể lên tới 20 năm. Cặp vợ chồng sống chung trong một hang và có thể giúp đỡ nhau trong công việc. Cả vợ lẫn chồng đều tham gia vào việc chăm sóc trứng. Trong chi Pullosquilla và một số loài thuộc chi Nannosquilla, con cái sẽ đẻ hai ổ trứng, một ổ để cho chồng chăm và một ổ thì vợ lo. Trong một số loài khác, con cái lo việc chăm trứng còn con đực thì kiếm ăn cho cả gia đình. Sau khi trứng nở, giai đoạn ấu trùng dạng phiêu sinh vật của tôm con có thể kéo dài tới 3 tháng.

Mặc dù phần nhiều tôm tít thường có lối di chuyển giống như ở tôm thật sự và tôm hùm, loài tôm tít Nannosquilla decemspinosa được ghi nhận là có khả năng búng người theo một chuyển động vòng tròn thô sơ. Chúng sống ở các vùng nước nông và có nền đất cát. Vào lúc triều thấp, N. decemspinosa đối diện với nguy cơ bị mắc cạn do những chân sau ngắn của chúng không đủ khỏe để di chuyển cơ thể trong môi trường cạn không được nước nâng đỡ. Lúc này, tôm tít sẽ búng người về phía trước để lăn mình vào khu vực còn ngập nước. Theo các quan sát, N. decemspinosa thường lăn tròn liên tục nhiều lần suốt một quãng đường dài , tuy nhiên các cá thể thí nghiệm thường chỉ lăn ít hơn .

Trong ẩm thực

Một mớ tôm tít tại [[Hậu Lộc, Thanh Hóa, Việt Nam.]]

Trong ẩm thực Nhật Bản, tôm tít được luộc và dùng trong các món sushi và đôi khi được ăn sống như sashimi. Chúng được người Nhật gọi là "tôm dế" (, ), cách gọi này có lẽ là do hình dạng của nó cũng có những điểm gần giống con dế trũi.

Tôm tít có mặt với số lượng phong phú ở vùng duyên hải Việt Nam. Trong ẩm thực Việt Nam, tôm tít có thể được hấp (cùng với sả, hấp cách thủy pha với bia), luộc, nướng hay phơi khô và thường được dùng với muối tiêu, nước mắm me hay thì là. Chế biến bánh khô tôm tít ở Gò Công, [[Tiền Giang, Việt Nam.]] Trong ẩm thực Trung Quốc, tôm tít được chế biến trong một món gọi là (, tiếng Quan Thoại pinyin: ', tiếng Quảng Đông: ') vì tôm tít thường hay bắn một tia nước ra ngoài khi bốc lên khỏi nước. Sau khi nấu, thịt tôm tít ăn có vị như tôm hùm hơn là tôm bình thường. Giống như tôm hùm, vỏ tôm tít rất cứng và cần dùng nhiều lực để bẻ gãy. Thông thường chúng được rán ngập trong chảo với tỏi và tiêu cay.

Trong vùng Địa Trung Hải, loài tôm tít Squilla mantis là một món hải sản thông dụng, nhất là ở vùng duyên hải Adriatic (canocchia) và vịnh Cádiz (galera).

Ở Philippines, người dân gọi tôm tít là tatampal, hipong-dapa, alupihang-dagat và chế biến nó như tôm bình thường. Những quan ngại thông thường về việc tiêu thụ hải sản là vấn đề đối với tôm tít vì chúng có thể sinh sống trong các vùng nước ô nhiễm. Điều này đặc biệt đúng ở Hawaii, nhất là Đại Kênh đào Ala Wai ở Waikiki khi một số cá thể tôm tít có kích thước lớn bất thường.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôm tít**, **tôm tích**, **tôm thuyền**, **bề bề** hay **tôm búa** (do một số loài có càng tiến hóa thành dạng chùy), là tên được dùng để gọi nhóm giáp xác biển thuộc **bộ Tôm
Tôm tít là một loại tôm có vị ngọt tự nhiên, thơm ngon, tuy nhiên khi ăn tôm tít bạn không nên ăn cùng thực phẩm giàu vitamin C, bia rượu ( đồ uống có
Tôm tít là một loại tôm có vị ngọt tự nhiên, thơm ngon, tuy nhiên khi ăn tôm tít bạn không nên ăn cùng thực phẩm giàu vitamin C, bia rượu ( đồ uống có
Tôm tít là một loại tôm có vị ngọt tự nhiên, thơm ngon, nó còn có nhiều dưỡng chất mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe như tăng cường thị lực, bổ sung năng
Tôm tít là một loại tôm có vị ngọt tự nhiên, thơm ngon, nó còn có nhiều dưỡng chất mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe như tăng cường thị lực, bổ sung năng
**Tôm tít trắng**, tên khoa học **_Harpiosquilla japonica_**, là một loài tôm tít trong họ Squillidae. Loài này được Manning và RB mô tả lần đầu tiên vào năm 1969.
**Họ Tôm gõ mõ** (_Alpheidae_) hay còn gọi là **tôm súng**, **tôm pháo** là một họ tôm có đặc điểm nổi bật là cặp càng bất đối xứng. Cụ thể, một chiếc càng của chúng
Tôm tích là một loại hải sản rất ngon, bổ dưỡng và được rất nhiều người ưa chuộng.Tôm tích hay còn được gọi là bề bề, tôm tít, tôm búa, là một loại hải sản
Một số loại tôm ngon như tôm sú, tôm he, tôm thẻ, tôm sắt, tôm hùm, tôm càng xanh, tôm tích... được rất nhiều người ưu chuộng. Bài viết này 1Shop sẽ cùng bạn khám
**_Lysiosquillina maculata_**, nghĩa trong tên tiếng Anh là **tôm tít ngựa vằn**, là một loài tôm tít được tìm thấy trên khắp khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương từ Đông Phi đến Galápagos và quần
**Tổ tôm**, hay theo Hán Việt **tụ tam bài** (聚三牌), là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người Việt. Về tên gọi, có nguồn cho rằng "tổ tôm" là đọc trại
**Lẩu bề bề** theo phong cách chế biến ẩm thực Hải Phòng có thể coi như một biến thể của món lẩu cua đồng vốn đã quen thuộc với nhiều thực khách sành món lẩu.
**_Squilla mantis_** là một loài tôm tít chủ yếu được tìm thấy và đánh bắt ở vùng Địa Trung Hải. Nó phát triển lên đến chiều dài 200 mm (8 in) dài, và thuộc loại _'spearer_.. Nhìn
**_Lysiosquillidae_** là một họ tôm tít trong bộ Stomatopoda. ## Các chi Họ này có các chi sau : * _Lysiosquilla_ Dana, 1852 * _Lysiosquillina_ Manning, 1995 * _Lysiosquilloides_ Manning, 1977
**_Miyakella_** là một chi tôm tít thuộc họ Squillidae. Trước đây, chi này được gọi bằng tên _Miyakea_ Manning, 1995. ## Các loài * _Miyakella holoschista_ (Kemp, 1911) * _Miyakella nepa_ (Latreille 1828)
**Squillidae** là một họ tôm tít, là họ duy nhất trong siêu họ **Squilloidea**. *_Alima_ Leach, 1817 *_Alimopsis_ Manning, 1977 *_Alimopsoides_ Moosa, 1991 *_Anchisquilla_ Manning, 1968 *_Anchisquilloides_ Manning, 1977 *_Anchisquillopsis_ Moosa, 1986 *_Areosquilla_ Manning, 1976
**_Gonodactylus_** là một chi tôm tít. ## Các loài Chi này chứa các loài sau: * _Gonodactylus acutirostris_ de Man, 1898 * _Gonodactylus botti_ Manning, 1975 * _Gonodactylus childi_ Manning, 1971 * _Gonodactylus chiragra_ (Fabricius,
Tết đến Xuân về, các bạn đang phân vân chưa biết tặng món quà gì vừa ý nghĩa vừa chất lượng cho gia đình, bạn bè, đối tác. Dưới đây là những gợi ý dành
**Ngư Lộc** là một xã ven biển thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Nay đã sáp nhập 5 xã Đa lộc, hưng lộc, minh lộc, ngư lộc, và hải lộc, thành Xã
Tại sao phải ăn chín uống sôi, túi bim bim sao lại phồng căng thế nhỉ Năm nhóm chất dinh dưỡng là gì Tại sao mì tôm lại được làm xoăn tít như vậy Có
**_Odontodactylus scyllarus_** là một loài tôm tít bản địa Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Guam đến Đông Phi. trái|nhỏ|Con _Odontodactylus scyllarus_ cái _O. scyllarus_ là một trong các loài tôm tít lớn hơn, màu
**_Gonodactylus smithii_**, còn gọi là **Tôm tít đốm tím**, là một loài tôm tít. Nó được tìm thấy từ Nouvelle-Calédonie vào phần phía tây của Ấn Độ Dương, bao gồm cả bờ biển bắc Úc
Loa sấy cho tóc xoăn Loa sấy giành cho tóc xoăn- Khi bạn uốn tóc xoăn, nhưng nếu sấy thông thường thì sẽ bị nhanh duỗi và mất sóng thì loa sấy là sản phẩm
**_Odontodactylus_** là một chi tôm tít, chi duy nhất trong họ **Odontodactylidae**. Những loài tôm tít trong chi _Odontodactylus_ không chỉ có thể phát hiện phân cực tròn của ánh sáng, mà còn có thể
Loa sấy cho tóc xoăn Loa sấy giành cho tóc xoăn - Khi bạn uốn tóc xoăn, nhưng nếu sấy thông thường thì sẽ bị nhanh duỗi và mất sóng thì loa sấy là sản
Loa sấy cho tóc xoăn Loa sấy giành cho tóc xoăn - Khi bạn uốn tóc xoăn, nhưng nếu sấy thông thường thì sẽ bị nhanh duỗi và mất sóng thì loa sấy là sản
Để có 1 sản phẩm đến tay khách và đc khách tin dùng là cả 1 quá trình tìm tòi, Test kỹ càng ko chỉ của riêng e mà cả của các cộng sự Hàng
nhỏ|300x300px| Khu neo đậu tránh trú bão ở [[Tây Cống (thị trấn)|thị trấn Tây Cống]] **Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá** () là nơi các tàu thuyền có thể tạm trú khỏi
**_Vòng xoay ảo_** (tên gốc tiếng Anh: **_The Circle_**) là một phim điện ảnh viễn tưởng rùng rợn của Mỹ năm 2017 do James Ponsoldt đạo diễn với phần kịch bản được thực hiện bởi
**Cá ngừ vây đen** (danh pháp hai phần: _Thunnus atlanticus_) là một loài cá trong họ Cá thu ngừ. Cá ngừ vây đen nói chung có chiều dài tối đa 100 cm và trọng lượng 21 kg.
phải|nhỏ|300x300px|[[Bút chì màu]] nhỏ|300x300px|Hiệu ứng màu sắc Ánh sáng mặt trời ánh sáng xuyên qua kính màu trên thảm ([[Nhà thờ Hồi giáo Nasir ol Molk nằm ở Shiraz, Iran)]] nhỏ|300x300px|Màu sắc có thể xuất
**Ba Hòn** là một cụm núi thấp, gồm 3 ngọn núi Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Quéo sát bờ biển, thuộc xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Tên gọi Ba Hòn được
thế=A toy animal with wheels|nhỏ|Một món đồ chơi nhỏ hình động vật có bánh xe xuất hiện tại [[México|Mexico, thời kỳ tiền Colombo.]] Một số sinh vật có khả năng **chuyển động quay** hoặc **lăn**.
**Montivilliers** là một xã thuộc bộ phận Seine-Hàng hải ở vùng Normandy ở miền bắc nước Pháp. ## Địa lý **Montivilliers là** một thị trấn công nghiệp và nông nghiệp lớn bên bờ sông Lézarde
**_Thần ăn_** (; tiếng Anh: **The God of Cookery**) là một bộ phim Hồng Kông do Châu Tinh Trì và Lý Lực Trì đạo diễn, tác phẩm được công chiếu lần đầu năm 1996. Là
**Hoplocarida** là một phân lớp giáp xác. Chỉ có các loài còn tồn tại là tôm tít (Stomatopoda), còn hai bộ khác từng sống trong Đại Cổ sinh là: Aeschronectida và Palaeostomatopoda. ## Hình ảnh
**_Lysiosquilla_** là một chi tôm tít trong họ Lysiosquillidae. ## Các loài Chi này có loài sau: *_Lysiosquilla acanthocarpus_ *_Lysiosquilla campechiensis_ Manning, 1962 *_Lysiosquilla capensis_ Hansen, 1895 *_Lysiosquilla colemani_ Ahyong, 2001 *_Lysiosquilla hoevenii_ (Herklots, 1851)
**_Odontodactylus japonicus_** là một loài tôm tít trong họ Odontodactylidae. Chúng được de Haan công bố mô tả lần đầu tiên vào năm 1844.
**_Erugosquilla_** là một chi tôm tít thuộc họ Squillidae. Chi này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1995 bởi Raymond Brendan Manning. Loài điển hình của chi này là _Erugosquilla massavensis_ . *_Erugosquilla
**_Squilla_** là một chi tôm tít trong họ Squillidae. ## Các loài Chi này gồm các loài sau: *_Squilla aculeata_ Bigelow, 1893 *_Squilla biformis_ Bigelow, 1891 *_Squilla bigelowi_ Schmitt, 1940 *_Squilla brasiliensis_ Calman, 1917 *_Squilla
**_Harpiosquilla_** là một chi tôm tít trong họ Squillidae. ## Các loài * _Harpiosquilla annandalei_ (Kemp, 1911) * _Harpiosquilla harpax_ (de Haan, 1844) * _Harpiosquilla indica_ Manning, 1969 * _Harpiosquilla japonica_ Manning, 1969 * _Harpiosquilla
**_Erugosquilla woodmasoni_** là một loài tôm tít trong họ Squillidae. Chúng được mô tả lần đầu tiên bởi Kemp, S. vào năm 1911.
**_Gonodactylidae_** là một họ tôm tít. ## Các chi Nó chứa các chi sau: *_Gonodactylaceus_ Manning, 1995 *_Gonodactylellus_ Manning, 1995 *_Gonodactyloideus_ Manning, 1984 *_Gonodactylolus_ Manning, 1970 *_Gonodactylopsis_ Manning, 1969 *_Gonodactylus_ Berthold, 1827 *_Hoplosquilla_ Holthuis, 1964
nhỏ|400x400px|Vườn quốc gia trong Tam giác San Hô **Tam giác San Hô **là một thuật ngữ địa lý được đặt tên như vậy vì nó ám chỉ một khu vực đại khái trông giống hình
Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**Chung kết Cúp FA 1927** là một trận thi đấu bóng đá giữa hai câu lạc bộ Cardiff City và Arsenal trong khuôn khổ Cúp FA do Hiệp hội bóng đá Anh tổ chức, diễn
**Lịch sử Hoa Kỳ**, như được giảng dạy tại các trường học và các đại học Mỹ, thông thường được bắt đầu với chuyến đi thám hiểm đến châu Mỹ của Cristoforo Colombo năm 1492
nhỏ|[[Rửa tội|Thánh lễ Báp-têm trong thế kỉ XXI tại Đức.]] **Báp-têm dìm ngập nước** (chữ Anh: _Immersion baptism_), hoặc gọi **Báp-têm dìm mình**, **Báp-têm nhấn chìm**, là một phương thức làm báp-têm, khác biệt với