✨Ngư Lộc
Ngư Lộc là một xã ven biển thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Nay đã sáp nhập 5 xã Đa lộc, hưng lộc, minh lộc, ngư lộc, và hải lộc, thành Xã Vạn lộc,Trong thời kỳ phong kiến, Ngư Lộc được biết đến với tên gọi Làng Diêm Phố. Ngư Lộc là làng ngư nghiệp điển hình của tỉnh Thanh Hóa, với sự đa dạng các phương thức đánh bắt và chế biến hải sản, cũng như truyền thống văn hóa đặc sắc. Ngư Lộc là một trong những xã có diện tích nhỏ nhất và mật độ dân số cao nhất Việt Nam.
Lễ hội cầu ngư tại xã Ngư Lộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia từ ngày 11 tháng 9 năm 2017.
phải|Con phố dọc theo đê biển của Ngư Lộc
Thông tin địa lý
Xã Ngư Lộc có diện tích: 0,54 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, xã Ngư Lộc có dân số 16.101 người, và mật độ dân số này cao hơn nhiều quận nội thành ở Hà Nội như Hoàn Kiếm, Đống Đa, Thanh Xuân,...
Ngư Lộc được biết đến với nhiều cái nhất trong tỉnh: Xã có diện tích nhỏ nhất tỉnh; dân số đông nhất tỉnh; tỷ lệ đói nghèo cao nhất (42% hộ nghèo); tỷ lệ chênh lệch giới tính cao nhất (2/3 là nữ).
Địa giới hành chính: Phía đông và đông nam giáp Vịnh Bắc Bộ; Phía tây và tây nam giáp xã Minh Lộc; *Phía bắc giáp xã Hưng Lộc.
Xã Ngư Lộc hiện nay được chia thành 7 thôn: Bắc Thọ, Chiến Thắng, Nam Vượng, Thắng Lộc, Thắng Phúc, Thắng Tây, Thành Lập.
Lịch sử
Vào thế kỷ X, đời vua Lê Đại Hành đã có chủ trương đưa dân đi khai hoang. Vua cử tướng Lê Phúc đi thị sát một số vùng ven biển phía Bắc và miền Trung nhằm phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. Trong thời kỳ đó, vùng ven biển Thuần Lộc (Hậu Lộc ngày nay) số dân đến ở không đáng kể.
Sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai năm Ất Dậu (1285), vua Trần Nhân Tông cho phép một số dòng họ đi khẩn hoang lập làng mới ở ven biển các huyện Thanh Hóa. Trong đó họ Bùi có nguồn gốc từ Hà Đông, họ Trần có nguồn gốc tổ tiền từ Kiến Xương (xưa thuộc Sơn Nam Hạ) đem theo nghề cá và nghề muối vào vùng Diêm Phố (Ngư Lộc) và Lạch Trường (Hải Lộc) để khẩn hoang lập làng mới, đồng thời mở mang nghề nghiệp.
Thời Trần, Diêm Phố (Ngư Lộc) mới hình thành cấp thôn. Thời Lê, Diêm Phố thuộc tổng Đăng Trường, huyện Phong Lộc, phủ Lạng Phong. Đến thế kỉ 16 đổi sang cấp làng. Theo gia phả họ Trần ở Ngư Lộc cách đây hơn 5 thế kỉ ghi: "Diêm phố trở thành một xã từ đầu thời Lê Trung Hưng". Chế độ xã trưởng thay cho chế độ lão trưởng, vị xã trưởng đầu tiên là ông Bùi Thế Duật. Đến đời Nguyễn, Thiệu Trị thứ 6 (1846) sắc phong ở phủ thờ cá Ông cho biết Diêm Phố là 1 xã thuộc tổng Xuân Trường, huyện Hậu Lộc, Tỉnh Thanh Hóa. Sau thời Khải Định năm thứ 2 (1917) Diêm Phố được gọi là Thượng Diêm Phố. Đến trước năm 1945 do có sự phát triển quy mô về cấp xã Diêm phố được sáp nhập với nhiều làng trong vùng hình thành xã mới... Diêm Phố trở lại thiết chế cấp thôn.
Ngoài ra, những tên Nôm dựa theo nghề đặc trưng của từng xóm trong thôn cũng được sử dụng như Xóm Gõ (xóm chuyên sử dụng thuyền gõ), xóm Bè (xóm chuyên sử dụng bè). Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Diêm Phố trở thành xã Cao Thắng. Năm 1946 đổi là xã Vạn Thắng. Chữ "Ngư" là chỉ nghề đánh cá, còn "Lộc" gắn với tên huyện Hậu Lộc. Xã mới Ngư Lộc có 14 xóm: Thắng Bắc, Thắng Tây, Thắng Nam, Thắng Vinh, Thắng Vượng, Thắng Đông, Thắng Phúc, Thắng Lộc, Thắng Thịnh, Thắng Cường, Thắng Thành, Thắng Minh, Thắng Đức và Thắng Lợi. Mỗi xóm có một trưởng xóm điều hành.
Một tài liệu khác cho biết: Từ năm 1950 đến 1952, xã Ngư Lộc gồm 4 thôn là Phú Thọ, Hùng Vương, Lộc Lôi và Thịnh Cường. Từ năm 1953 đến năm 1975 gồm 17 thôn.
Năm 1988 thực hiện chủ trương của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, đơn vị xã trong cả nước được phát triển cấp thôn. Từ đó đến nay xã Ngư Lộc được chia thành 7 thôn: Chiến Thắng, Thành Lập, Thắng Lộc, Nam Vượng, Thắng Tây, Thắng Phúc và Bắc Thọ.
Nghè Thánh Cả và Bản thổ thần
Làng Diêm Phổ nằm sát ven bờ biển. Hằng năm do nạn biển lấn nên làng bị sạt lở dần. Ngôi nghè cả được xây dựng từ khi mới thành lập đến nay đã qua 4 lần xây dựng lại, xây dựng gần đây nhất là vào năm 1946. Tuy trải qua nhiều lần xây dựng lại nhưng nghè vẫn giữ được kiểu kiến trúc xưa, mặt ngoảnh hướng Nam. Kiến trúc của nghè theo phép đối xứng rất cân đối giữa nghè chính, tam quan và hai dải vũ, ở giữa là một sân gạch hình chữ nhật.
Tôn giáo, tín ngưỡng
Hơi thở làng nghề ngư nghiệp
Thờ cúng tổ tiên
Đến Ngư Lộc chúng ta thấy nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên, thôn nào cũng có nhà thờ họ. Thờ cúng ông bà, cha mẹ, tổ tiên phải lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày giỗ tết. Ở Ngư Lộc dù là nhà ngói hay nhà tranh, phần lớn đều làm theo kiểu tứ trụ, nhà thường có ba gian hoặc năm gian, bàn thờ tổ tiên đặt tại gian giữa nhà theo cửa chính, trên bàn thờ được bài trí cẩn thận, nhà nghèo thì cái án thu để mộc, nhà giàu thì có hương án, linh tọa, khánh thờ....sơn son thiếp vàng, cũng ở gian ấy, còn được trang trí thêm bức cửa võng bằng nỉ, câu đối, đại từ... Nhưng có một điểm chung là gia đình nào ở đây cũng chỉ thờ 5 vị đời: cặm, cụ, ông bà, cha mẹ, còn từ đời cặm trở về trước đều quy về nhà thờ tổ để thờ chung. Ngày giỗ, mùng 1 đầu tháng thì có xôi, thịt, bánh rán, vàng hương, trầu rượu, ngày rằm có hoa trái, trầu nước để cúng ông bà cha mẹ cầu ông bà cha mẹ phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn. Ngày tết (tháng giêng) có bánh chưng, giò thịt và cá dưa, bánh mứt các loại cúng tổ tiên.
Người phụ nữ mới sinh, trong ăn uống chỉ được ăn cơm với mắm cạo (nước mắm ngon kho cho thật cạn khi ăn lấy thìa cạo), nhà có điều kiện thì ăn cơm với cá kho mặn đét (mặn chát), cũng với quan niệm "lành" là để bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Hết cữ các gia đình có lệ, xúc tro than "nằm lửa" của người mẹ ra đổ ở ngã ba đường đông người qua lại. Nếu sinh con gái than đổ làm 9 nhóm, nếu là con trai than đổ thành 7 nhóm, ý muốn báo cho mọi người qua lại biết rằng trong làng có một cháu nhỏ ra đời. Vợ chồng sinh con trai được gọi là cha cò mẹ cò, sinh con gái được gọi là cha hĩm, mẹ hĩm. Đầy cữ cho con, bố mẹ phải làm lễ cúng mụ bà, đồ lễ phải được đặt vào mẹt đặt trên giường. Lễ vật gồm có: một nắm cơm cắt làm 12 miếng, một quả trứng cắt làm 12 tiếng, một đĩa 12 con tôm, một đĩa 12 con cua, 12 cái bát 12 đôi đũa, 12 miếng trầu. Sau đầy cữ chọn trong dòng họ ai đông con cháu, mang trầu rượu đến để xin đặt tên. Đối với bà con họ hàng, anh em bạn bè khi biết tin trong họ tộc hay bạn bè có một đứa trẻ vừa chào đời, họ thường mang vài chục can gạo ngon đến mừng. Điều đó có ý nghĩa thể hiện sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong mọi công việc.
Lễ hội Cầu Ngư của làng Diêm Phố được bắt đầu từ ngày 21 tháng 2 đến ngày 24 tháng hai âm lịch. Các vị thần được thờ ở Lễ hội này là Tam Bảo Phật, Tứ vị Thánh Nương, Đông Hải Đại Vương, Nẹ Sơn Tôn Thần, Nam Hải Đại tướng quân... Đây là lễ hội lớn nhất trong năm của xã đồng thời cũng là lễ hội lớn nhất và đặc trưng nhất của khu vực ven biển Tỉnh Thanh Hóa. Bởi vậy mà công tác chuẩn bị cho lễ hội hết sức cẩn thận và chu đáo.
Quại thảm (thảm cói) được làm từ nguyên liệu cói khô. Cói khô được mua từ Nga Sơn về. Qua lựa chọn và phân loại: khê, đen, trắng, dài, ngắn khác nhau. Sau đó cói được đem ngâm qua đêm trong nước cho bớt độ mặn trong cói làm tăng độ bóng, trơn cho cói khi dóc. Cách thức quại thảm thực hiện qua các bước sau: dóc quại, đóng mảnh, bao ghép và đóng kiện. Dóc quại cũng giống như kiểu đánh thừng, một đầu sợi quại được mấu vào cột và bắt đầu dóc theo chiều lùi dần. Mỗi sợi quại dóc hết 1 kg cói khô, chiều dài tiêu chuẩn là 34m. Sợi quại dóc xong thì bắt đầu đóng mảnh. Đóng mảnh bằng kim khâu, sợi chỉ đóng mảnh làm bằng sợi đay xe nhỏ. Cứ hai mảnh được đóng từ một sợi quại. Sau đóng mảnh là bao ghép và đóng kiện. Bao ghép là hình thức đấu từng lá đều nhau theo tiêu chuẩn định sẵn có các kích thước: 27 x 36dm2, 45 x 50dm2, loại bầu dục 43 x 73dm2... Các cỡ thảm này phải khâu qua bàn. Khi bao ghép phải đảm bảo kỹ thuật: chắc cân đối và hình thức đẹp. Cứ 4 lá đóng thành một kiện. Tuy nhiên cũng tùy từng loại và từng nước đặt hàng. Thảm đóng kiện phải được đánh mốc, chống thấm, chống ẩm và có bao bì bảo quản. Phụ nữ Ngư Lộc thuần thục với cây ghim sợi gai, đan lưới quanh năm suốt tháng phục vụ chồng con ra khơi đánh cá. Để có được tấm lưới cho chồng ra biển, người phụ nữ đã phải làm qua nhiều công đoạn. Cây gai mua về làm nhợ đan lưới được xử lý qua các bước sau: Dùng nạo cạo lớp vỏ lụa phía ngoài của da cây Tước nhỏ bẹ gai thành từng sợi *Dùng xa quay tạo nên những hạt chỉ nhợ. Chỉ nhợ có nhiều loại to nhỏ khác nhau. Người đan tùy thuộc vào từng loại chỉ để đan các loại lưới cho phù hợp: văng, sẻo, rẻo... Dụng cụ đan lướt thật đơn giản. Chủ yếu những dụng cụ này tự làm lấy để dùng gồm: cây ghim, vừa là ống nhợ đồng thời vừa là kim đan, làm bằng tre mềm, mỏng dài từ 14–18 cm, rộng 1,5 cm. Một đầu được vót nhọn làm mũi kim, đầu kia được vẹt lõm để dễ cuốn nhợ. Giữa thân kim có cựa để quấn nhợ và rút nhợ. Cỡ cũng được làm từ tre già, có độ cứng hơn ghim để dễ kê đan. Cỡ có nhiều loại ứng với từng loại mắt lưới. Tấm lưới dù to hay nhỏ khi đan cũng phải sử dụng tới nhiều loại cỡ khác nhau. Khác với ghim, cỡ chỉ dài khoảng 10–12 cm.
Đến năm 1925, Diêm Phố (Ngư Lộc) trở thành một làng đánh cá lớn với 600 nóc nhà, khoảng 3000 người, 125 thuyền và 800 mảng . Lưới gõ có hình giáng giống như hình chữ nhật. Phương tiện dùng cho nghề gõ gai là bè luồng. Bè luồng gõ gai gắn bó mật thiết và lâu đời nhất đối với ngư dân Diêm Phố xưa. Có tới nửa làng phía bắc Diêm Phố sử dụng bè nên tục xưa gọi là xóm Bè. Việc đánh bắt hải sản trở nên thuận lợi hơn từ khi có nghề gõ gai ra đời. Sản lượng tăng lên, đời sống ngư dân có phần dư dật và sung túc. Những xóm này có tổng số thuyền chiếm gần 2/3 tổng số thuyền của cả Diêm Phố. Nên tục xưa gọi là xóm gõ (thuyền gõ). Nghề gõ trở thành nghề chính và có địa vị độc tôn ở Diêm Phố, cho tới tận bây giờ vẫn được khẳng định:"Nghề gõ là loại chúa nghề".
Các loại cá thường đánh là: Thèn, đầu, hồng hoang, mực ống và cá dưa. Do chiếm ưu thế về năng suất cao cho nên nghề giã cá càng ngày càng phát triển. Tuy nhiên trong thời kỳ chiến tranh nghề giã cá bị gián đoạn. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng nghề giã cá mới có điều kiện khôi phục trở lại. Thuyền kéo lưới giã cá có ưu điểm; to, vững chắc chịu được gió bão cấp 7, cấp 8 và ít gây ra tai nạn trên biển.
Thường moi có thời vụ kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch. Nhưng đặc điểm của mỗi giai đoạn mỗi khác. Đầu mùa, moi hoạt động ở mực nước sâu từ hai đến ba sải. Cuối mùa ở mực nước sâu từ 4 đến 5 sải. Thời điểm tháng 4 moi thích ở nơi nước đỏ, tháng sáu moi thích ở nơi nước lờ, tháng 7 tháng 8 moi vượt ra khơi xa. Khi gặp bão nó lại vào nước cạn 4 sải. Cữ được moi rộ vào những ngày "sương sa nắng lặng", moi nổi dày đặc rất dễ khai thác. Nắm được quy luật và quán tính của moi, người dân Ngư Lộc đã nghiên cứu cách cấu tạo giã, rồi cải tiến cho phù hợp đồng thời tìm ra cách đánh bắt chuẩn xác, hiệu quả.
Giã moi của Ngư Lộc không giống giã moi của các nơi khác. Về cấu tạo, lưới giã moi làm bằng sợi tơ dệt, dài 17 sải rộng 60 cm. cấu tạo của nó giống như một cái túi, khi xếp lại có hình dáng như hình thang vuông. Nhưng khi đánh moi, miệng giã giống hình tam giác phía sau có túi hơi tròn. Lưới giã moi có ba bộ phận: Miệng giã, thân và túi giã. Ngoài lưới giã còn có cây lang cang (rào nằm), rào đứng làm bằng tre, và dây leo bằng đay có đường kính 6 cm (dây xe ba).
Thuyền kéo lưới giã được làm từ loại gỗ săng lẻ, có ưu điểm nhẹ, chắc chắn, chạy nhanh, trọng tải chở từ 3 -4 tấn. Thuyền có một bánh lái, chiều dài của thuyền là hơn 11m, sử dụng hai buồm, kéo từ 4 - 6 lưới giã. Mỗi thuyền sử dụng khoảng 3 lao động.
Nghề giã tôm
Mớ [[tôm tít|tôm tít (tôm tích, tôm chài) còn tươi nguyên.]] Khác với mùa moi, mùa tôm thường không thống nhất về mùa vụ, mà nó phụ thuộc vào đối tượng tôm cụ thể. Ví dụ như: tôm he vào thời điểm tháng 4 đến tháng 5, tôm vàng, tôm bột, tôm sắt, tôm đanh... từ tháng 3 đến tháng 10 (âm lịch).
Tháng 1, tôm bắt đầu đẻ trứng ở bờ hay tựa cồn. Đặc tính tôm vàng và tôm gai thường đi tía, chúng thích màu nước đỏ. Tôm he, tôm mùa, tôm bột, tôm sắt thích ở màu nước xanh. Vào cử tháng 8 đến tháng 12 gặp gió heo may bề lặng tôm thường kéo đàn, kéo tía vào bờ cư trú kiếm mồi, hễ gặp phải chướng ngại vật, tôm có thói quen co mình nhảy lùi lại.
Nghề giã tôm ở Ngư Lộc có sau các nghề giã khác. Nó mới xuất hiện khoảng vài thập kỷ gần đây. Phương tiện để giã cũng bằng thuyền và là loại thuyền nhẹ, chạy nhanh có trọng tải 3-4 tấn. Loại lưới dùng để giã tôm không có phao. Thân lưới giã tôm hình phễu dài từ 3,5m đến 3,6m, miệng lưới có 320 mắt, đuôi lưới có 98 mắt. Lưới giã tôm là loại lưới đánh kéo sát đáy nên sử dụng nhiều chì, làm cho lưới dễ chìm. Mỗi giã tôm dùng khoảng 3,2 kg chì. Để miệng giã tôm căng người ta dùng một cây sào dài gần 3m thay thế cho phao làm cho miệng giã nổi. Đặc biệt, biết được thói quen và quán tính của con tôm hay nhảy lùi khi gặp chướng ngại vật, ngư dân ở đây đã vận dụng sáng tạo chế ra tấm lưới yếm, dưới tấm lưới yếm giữa hai đầu cánh có một bao lưới nhỏ gọi là mang lưới. Mạng lưới trong và mạng lưới ngoài tạo thành cái lưới treo lơ lửng dưới tấm yếm. Khi đánh tôm, do đụng phải chướng ngại vật tôm cong mình bật lùi lại và bị chắn bởi tấm lưới yếm, tôm lui dần và cuối cùng nằm co trong túi mạng.
Giã tôm là một nghề có thu hoạch cao và giữ vị trí đặc biệt về giá trị xuất khẩu trong nền kinh tế biển của Ngư Lộc. Điển hình có những đơn vị mũi nhọn như hợp tác xã Thắng Tây có ngày thu từ 4-5 tấn tôm đạt chất lượng xuất khẩu. Nhờ có nghề giã tôm Ngư Lộc nhanh chóng trở thành đơn vị xuất khẩu có uy tính nhất trong khu vực biển của tỉnh Thanh Hóa, cũng như của cả khu vực phía bắc.
Nghề lưới rút
Nghề này có từ các Huyện Quảng Xương, Tĩnh Gia được đưa vào Ngư Lộc những năm 1965-1966. Nghề lưới rút thường được sử dụng để đánh cá tập trung, theo cách dụ cá bằng chà.
Chà dụ cá làm bằng các tàu dừa hoặc cành tre còn cả lá, được thả xuống mặt biển, tạo bóng râm cho cá vào trú. Rồi dựa vào các chà đó để dùng lưới xúc cất lấy cá. Lưới rút thường dùng để đánh cá nục, cá trích, cá chỉ vàng, cá quẩn, và cá lầm... Các loại cá này chủ yếu hoạt động ở tầng nước mặt và nước giữa. Chúng có đặc điểm dễ sống chung với nhau và di cư theo đàn. Do đó cấu tạo lưới rút và phương pháp đánh bắt có những nét riêng so với các loại lưới và cách đánh khác.
Tính năng của lưới rút là đánh bắt theo kiểu cất xúc, nên miệng lưới luôn luôn hướng ngược chiều nước chảy, vì vậy vàng lưới phải có chiều dài và chiều rộng thích hợp. Lưới thả phải đạt hai yêu cầu; chìm nhanh và nổi nhanh. Để khai thác cần chọn chỗ nước chảy, đồng thời kỹ thuật khai thác ở đây khá phức tạp. Đối tượng đánh bắt ở đây là cá nục, lầm, cá trích... loại cá này sợ tiếng động và lẩn trốn rất nhanh. Để khai thác có hiệu quả ngư dân ở đây phải chú ý đến hai khâu; là đi neo và đánh lưới. Đi neo cơ bản phải nắm vững hướng gió, hướng chảy của dòng nước tầng đáy, tầng giữa, tầng mặt thủy triều và con nước lên xuống. Từ đó quyết định đi neo hướng nào là tốt nhất. Đi neo phải sát chỗ thả chà hay chỗ cá đứng. Đánh lưới rút cũng còn tùy thuộc vào nhiệt độ, khí hậu để quyết định đánh vào thời điểm nào là năng suất, thời điểm thích hợp nhất là tháng 4, 5, 6 (âm lịch).
Gần đây vùng biển Ngư Lộc mất mùa cá nổi, nghề lưới rút chỉ rộ lên một thời gian ngắn 1968 - 1983 rồi chậm lại.
Nghề câu cá dưa
Người Diêm Phố xưa có câu: ::''Muốn ăn con cá dưa dài :''Đem con mà gả cho trai xóm Bè. Nghề câu cá dưa ở Diêm Phố thịnh hành nhất là ở xóm Bè. Câu cá dưa có thời vụ từ tháng 9 và tháng 10 âm lịch. Trước đây, họ thường dùng bè để đi câu nhưng sau này dùng thuyền là chủ yếu. Lưỡi câu cá dưa làm bằng sợi dây đồng dài 18 cm, bẻ gom lại, có cạnh sắc. Khác hẳn với nghề câu cá đồng, cá sông phải dùng mồi để nhử cá, nhưng nghề câu cá dưa thì không cần mồi. Người đi câu ngồi trên thuyền, thả cần câu có mắc sợi dây đồng xuống biển, nhờ dòng chảy tác động, lưỡi câu đưa đi đưa lại, cá dưa di động vướng vào lưỡi câu, càng vùng vằng càng mắc chặt vào lưỡi câu, thấy động người câu k éo lên dùng đáp kéo cá dưa vào bè. Đáp là một đoạn tre già dài 1m, đầu có gắn mấu sắt dùng để mấu cá. Đây là dụng cụ không thể thiếu được đối với mỗi người đi câu cá dưa. Cá dưa là loại cá da trơn, thân to như khúc luồng tay không khó có thể bắt được, người dân xóm bè thường dùng bè đi lại để câu cá dưa. Mỗi bè sử dụng từ 1-2 người. Mỗi người có thể sử dụng nhiều cần câu cùng một lúc.
Mùa câu cá dưa ở xóm bè nhiều năm được rộ, có bè trong 1 ngày có thể câu được 30 con, nhiều con nặng tới 7–8 kg. Cá dưa thuộc diện cá ngon và hiếm nên rất đắt tiền. Cá dưa ưa sống dưới gầm sâu đáy biển hoặc hang hốc khe đán, các nghề lưới thường bó tay, chỉ có nghề câu mới bắt được. Cá dưa dùng để giã giò, làm chả... Giò cá dưa ngon và có mùi vị đặc trưng dùng trong những buổi cỗ bàn quan trọng. Bóng cá dưa ăn ngon và bổ. Ngoài giá trị về dinh dưỡng, bóng cá dưa còn dùng làm keo phục vụ trong công nghiệp.
Nghề câu cá dưa xóm Bè duy trì đến năm 1960 thì chững lại và mai một dần nhường chỗ cho những phương tiện và ngư cụ đánh bắt tiên tiến hơn như lưới quét và tàu có công suất lớn.
Chế biến hải sản
Cá khô
Cá chỏng (cá trổng) sau khi được chế biến khô Con tôm biển sau khi được bóc vỏ, phơi khô Một trong những nghề thủ công có giá trị về mặt dự trữ và kinh tế ở Ngư Lộc từ xưa đến nay là nghề chế biến cá khô. Nguyên liệu là cá tươi được khai thác từ biển về. Cá tươi bán ở chợ không hết, một phần đem kho nồi hoặc nướng để phiên chợ sau bán tiếp, phần lớn còn lại dùng vào việc phơi khô dự trữ bán ở những vùng xa xôi trong tỉnh và ngoài tỉnh.
Cách làm cá khô rất đơn giản. Cá đánh về được chia làm hai loại: cá tạp (nhiều loại cá nhỏ) và cá lớn. Cá tạp sau khi đưa về rửa sạch lơn muối đều giữ cho cá không bị ươn hoặc thối. Sau đó người ta cho cá vào vại hoặc bể, chờ khi có ánh nắng mới đem ra phơi trên trành hoặc nong cho ráo và đưa ra bãi cát hoặc sân phơi, khi nào được nỏ là được. Loại cá lớn như cá góc, cá chim, cá hồng, trước khi lơn muối phải mổ moi hết ruột gan cá, rửa sạch, có loại thì đem sẻ thịt mỏng phơi cho chóng khô. Dùng muối rắc đều trên từng con cá ủ qua đêm chờ nắng. Có những mùa cá như mùa cá gúng nhiều hôm bà con ngư dân phải thức qua đêm miệt mài làm cá cho kịp nắng. Cá khô phơi phải thường xuyên thì hai ngày được một mẻ. Cá khô dự trữ thường được đựng trong những chum vại to, vừa giữa được độ giòn vừa tránh được mốc. Do có trữ lượng lớn, thuyền buôn các nơi thường vào cất sĩ mang đi bán các nơi.
Mắm chua
Từ nguyên liệu con moi (tép biển) đánh về, muốn có được một vại mắm ngon, chất lượng, người làm mắm phải chọn được loại moi thích hợp. Có hai loại moi, moi thịt và moi rạ. Moi thịt hay còn gọi là moi nước ngọt. Loại này có mùa vụ khai thác từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch. Sở dĩ gọi là moi thịt bởi thời gian này nước mát mưa nguồn nhiều đem theo nhiều thức ăn ra biển cho tôm cá. Có nguồn thức ăn dồi dào con moi trờ nên béo ngậy nhiều thịt vì vậy gọi là moi thịt. Trái lại tháng 9 tháng 10 thời tiết hanh, biển bắt đầu vào mặn, nguồn thức ăn trở nên nghèo nàn coi moi gầy và ít thịt, vỏ lại cứng cho nên mới gọi là moi rạ. Loại moi này làm mắm chất lượng kém hẳn moi thịt.
Moi làm mắm phải được làm sạch, đánh nhuyễn, sau đó trộn đều với thính và muối theo tỉ lệ; 1 kg moi trộn 25% muối và 0,08 kg thính. Nếu là moi rạ thì hàm lượng muối ít hơn. Trộn xong đem phơi ngoài trời, mưa che nắng mở. Cách ngày đảo lên một lần cho moi chín đều.
Thính được làm từ ngô hoặc vừng vàng. Dùng thính vừng vàng mắm có màu tươi sáng, chất bùi, ngậy, béo và thơm. Thính ngô làm có cầu kỳ hơn. Trước khi làm thính ngô hạt phải được chọn loại ngô ngon, đãi sạch luộc kỹ, phơi khô, sau đó rang vàng rồi nghiền thành bột. Với loại thính ngô mắm có màu vàng hồng, không xỉ, độ chua vừa phải. Mắm chua ngon nhưng lại rất cầu kỳ, không được để mắm trong nhà và đựng trong lan can nhựa hoặc bình thủy tinh vì rất dễ làm mắm chóng hoai và kém chất, thậm chí có thể làm mắm thối.
Ngày tết của người dân Ngư Lộc không thể thiếu được bát mắm chua bên cạnh thịt mỡ dưa hành vi nó làm mất đi cái ngan ngán của mỡ và làm tăng thêm vị ngon lạ trong các món ăn của ngày tết.
Mắm tôm
Mắm tôm còn có tên gọi khác là ruốc hôi. Mắm cũng được làm từ nguyên liệu là con moi nhưng cách làm lại đơn giản hơn mắm chua. Moi được làm sạch sau đó trộn đều với muối theo tỉ lệ 25-27% muối đối với moi thịt và từ 15-20% muối đối với mọi rạ. Cho vào vại đánh nhuyễn tơi, phơi ngoài nắng và phơi sương từ khoảng 1 năm là ăn được. Khi đem ra ăn chỉ cần thêm một chút gia vị, chanh, ớt, đánh cho mắm bông lên rồi đem thịt cầy, heo luộc hoặc măng đắng mang từ rừng về hay bánh đúc dân dã chấm cùng, đảm bảo ai đã từng một lần nếm qua thì không bao giờ quên được mùi vị đó: ::''Thương chồng bánh đúc bẻ ba :''Tôm canh quẹt ngược cửa nhà anh xiêu.
Loại mắm này gia đình nào ở Ngư Lộc cũng muối, vừa để ăn vừa để bán. Có nhà muối từ 2-3 tấn trong một vụ. Phần lớn mắm được đem nhập đi các nơi trong và ngoài tỉnh đem lại thu nhập đáng kể cho các bộ phận gia đình ở đây.
Mắm tôm ở đây được coi là ngon nhất Việt Nam. Được xuất khẩu đi Mỹ, chủ yếu là người Việt Nam và Trung Quốc định cư ở Mỹ ưa chuộng.
Nước mắm (mắm cá)
Cũng như nghề mắm moi, nghề mắm cá ở đây cũng khá phổ biến. Nguyên liệu để chế biến nước mắm ở đây là các loại cá: lầm, nục, chỏng, trích, thu... Nhưng ngon nhất vẫn là cá cơm (cá tỏng) cá nục và cá thu. Dụng cụ dùng để chế biến nước mắm là các loại thùng gỗ có đường kính 1-2m, cao 20–30 cm, bể xi măng và các chum vại có dung tích lớn.
Kỹ thuật làm nước mắm cũng giống như các nơi khác. Cá sau khi đánh về rửa sạch, cho vào thùng hoặc bể, cứ một lượt muối xếp một lượt cá cho đến khi hết cá thì rải thêm một lượt muối cuối cùng lên trên nữa. Dùng một cái vỉ đặt lên phía trên cá rồi dùng đá tảng chận lên trên nén chặt cá. Vài hôm sau nước cá dâng cao, tháo lấy nước ấy, rồi tiếp tục nén ép cá, lại đổ nước cá nén đợt đầu vào trở lại bể cá. Quá trình rút ra đổ vào khoảng 3 lần, sau đó hãm cá từ 3-6 tháng, thậm chí càng để lâu càng tốt. Trong thời gian hãm cá luôn phải để ý nắng mưa (nắng mở mưa che). Nhờ nắng mà mắm cá nhanh chín tơi, lúc này người ta gọi là mắm chượp. Qua thời gian hãm đã đủ người ta bắt đầu kéo cho nước mắm chảy qua vòi nhỏ giọt, sau đó tiếp tục đổ quay trở lại bể cá. Quá trình này diễn ra vài ba lần. Làm như vậy ta có được loại nước mắm cốt. Nước mắm cốt ban đầu còn hăng phải phơi nắng một thời gian nhất định cho vị của nó dịu dần trở nên thơm ngon hơn. Sau khi thu nước mắm cốt xong, phải nấu nước muối sôi để nguội, đổ vào xác chượp và dùng cào quấy đều, tiếp tục phơi nắng cho đến lần thứ 3-4. Cuối cùng nấu xác chượp với muối rồi đem lọc qua vải để lấy mắm loại 5 hay còn gọi là nước mắm kho. Để xác định nồng độ đạm trong nước mắm người ta dùng nhiệt kế đo hoặc ngửi qua mũi.
Hằng năm Ngư Lộc cung ứng cho thị trường tới vài ba vạn lít nước mắm có chất lượng.
// Dòng này sẽ