✨Tiridates I của Parthia

Tiridates I của Parthia

Tiridates, hoặc Teridates hoặc Tirdad hoặc تیرداد tiếng Parthia:𐭕𐭉𐭓𐭉𐭃𐭕 (Tīridāt) là một tên Ba Tư, được Arrian ghi lại trong tác phẩm Parthica của mình để nói về người em trai của Arsaces I, người sáng lập của đế chế Parthia, theo đó ông đã kế vị anh trai mình vào năm 246 TCN. Nhưng những thông tin của Arrian dường như được cho là phi lịch sử và các sử gia ngày nay cho rằng Arsaces đã cai trị Parthia cho tới tận năm 211 TCN.

Trong tác phẩm của Arrian, Tiridates đã tự mình cai trị Parthia một thời gian ngắn tại Parthia, trong giai đoạn đế chế Seleukos suy yếu vì các cuộc tấn công của Ptolemaios III năm 246 TCN và những năm tiếp theo. Tiridates đã bị Seleukos II đánh bại và trục xuất vào khoảng năm 238 TCN. Nhưng khi Seleukos bị buộc quay trở về phía tây do cuộc nổi loạn của người em trai, Antiochus Hierax, Tiridates đã trở lại và đánh bại người Macedonia. Tiridates đã sử dụng tên của anh trai và các vị vua Parthia sau này cũng vậy.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiridates**, hoặc **Teridates** hoặc **Tirdad** hoặc **تیرداد** tiếng Parthia:𐭕𐭉𐭓𐭉𐭃𐭕 (Tīridāt) là một tên Ba Tư, được Arrian ghi lại trong tác phẩm Parthica của mình để nói về người em trai của Arsaces I, người
nhỏ|Vologases I. **Vologases I của Parthia** (tiếng Ba Tư: Balash hoặc Valakhsh) vua của đế chế Parthia từ khoảng năm 51-78. Con trai của Vonones II với một nàng hầu người Hy Lạp. Ông đã
**Arsaces I** là vị vua khai quốc của nhà Arsaces ở thế kỉ thứ III TCN, và sau này có khoảng 30 vị vua của Vương quốc Arsaces chính thức mang tên như vậy. Thông
**Vonones II của Parthia **trị vì một thời gian ngắn đế chế Parthia vào năm 51 TCN. Trong thời kỳ trị vì của người anh Gotarzes II của mình, ông được chỉ định làm tổng
**Artabanus II của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 10-38 SCN. Ông là con trai của một công chúa của nhà Arsacid, người đã sống ở miền Đông trong số những người
nhỏ|Phraates IV. **Vua Phraates IV của Parthia**, con trai của vua Orodes II, trị vì đế chế Parthia từ năm 37- năm 2 TCN. Ông được phong làm thái tử kế vị vào năm 37
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
nhỏ|Một thanh niên trong trang phục Parthia, [[Palmyra, Syria vào nửa đầu thế kỷ III. Tượng khắc trang trí. Bảo tàng Louvre.]] **Người Parthia** là một dân tộc miền đông bắc Ba Tư; họ là
Dưới đây là danh sách các vua chư hầu La Mã cổ đại, sắp xếp theo giới tính và quốc gia và năm tại vị. ## Vua ### Pharos * Demetrius của Pharos kh. 222-
**Gaius Julius Antiochus IV Epiphanes** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γάιος Ἰούλιος Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, trước năm 17 CN - 72 CN) trị vì từ năm 38-72 CN và là một vị vua chư hầu
**Các cuộc chiến tranh La Mã – Parthia** (Từ năm 66 TCN – 217) là một loạt các cuộc xung đột giữa đế quốc Parthia với người La Mã. Đây là chuỗi các cuộc xung
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
Bản đồ của đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới triều đại của hoàng đế [[Hadrian, cho thấy **Legio XXII Deiotariana**, đóng quân tại Alexandria (Alexandria, Ai Cập), thuộc tỉnh Aegyptus, từ năm
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
Trong lịch sử, đã có những vị đế vương vì có công với việc thay đổi Quốc gia nên họ được gọi là "Vĩ đại". Ở Ba Tư, danh từ này được sử dụng lần
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,