✨Tiếng Dân (báo)

Tiếng Dân (báo)

Báo Tiếng Dân là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947), một nho gia thuộc trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn báo đặt tại Huế, phổ biến và có ảnh hưởng lớn trong giới trí thức miền Trung trong gần 16 năm dài, từ 1927 tới năm 1943.

Lịch sử

Năm 1926, chính quyền Pháp chủ trương cải tổ Hội đồng Tư phỏng thành Nhân dân Đại biểu (Viện Dân biểu) và sắp đặt tổng tuyển cử hạn chế, Huỳnh Thúc Kháng đệ đơn ứng cử tại hạt Tam Kỳ và trở thành Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Sau lần khai mạc Hội đồng lần thứ nhất, ông Kháng được những người hoạt động chính trị ủng hộ đã gửi đơn xin phép đến tòa Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế để thành lập một tờ báo. Để huy động vốn, ông và những người cùng chí hướng dự định thành lập một công ty cổ đông với tên gọi Công ty chuyên trách tập cổ Huỳnh Thúc Kháng. Vì không có kinh nghiệm trong việc điều hành tòa soạn, các cộng sự quyết định cử Đào Duy Anh vào Sài Gòn để tìm hiểu công việc làm báo vào cuối mùa hè năm 1926. Ba tháng sau, ông trở lại Tourane (tức Đà Nẵng ngày nay) để hỗ trợ cộng sự lập công ty và mua nhà in để mở tờ Tiếng Dân. Đến tháng 2 năm 1927, công ty đã gọi vốn được 3 vạn bạc (phần lớn đến từ Phan Thiết, Bình Thuận và Quảng Nam, nơi phong trào Duy Tân hoạt động mạnh). Ngày 12 tháng 2 năm 1927, Toàn quyền Đông Dương Pasquier cho phép tờ Tiếng Dân xuất bản, với điều kiện phải dời trụ sở từ Tourane sang Huế để tiện kiểm soát. Mùa hè năm 1927, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xương Thái và Đào Duy Anh đến Hà Nội mua lại nhà in Nghiêm Hàm nhằm chuyển cơ sở về Huế, dự kiến báo sẽ xuất bản vào tháng 7 cùng năm. Chủ nhiệm tờ Thực nghiệp dân báo Mai Du Lân đã đồng ý chuyển nhượng toàn bộ trang thiết bị nhà in Nghiêm Hàm, đồng thời đưa thợ nhà in vào Huế giúp đỡ. Tháng 4 năm 1927, trụ sở tòa soạn chuyển đến 123 đường Đông Ba phố Hàng Bè, tỉnh Thừa Thiên. Số báo đầu tiên chính thức được phát hành vào ngày 10 tháng 8 năm 1927.

Định dạng

Từ số đầu đến ngày đình bản, manchette của Tiếng Dân hiếm khi thay đổi, dòng đầu trang nhất có ngày âm lịch và dương lịch ra số báo và giá mỗi số; hai chữ TIẾNG DÂN đậm nét, ở dưới là dòng chữ tiếng Pháp (Tiếng dân), bên cạnh là hai chữ Nôm (Dân Thanh). Về ngày ra báo, báo ra đúng hai lần một tuần: thứ Tư và thứ Bảy. Từ ngày 1 tháng 2 năm 1936 đến ngày 30 tháng 12 năm 1939, báo ra mỗi tuần ba số: thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy. Từ đầu năm 1940 trở đi báo trở lại mỗi tuần hai số như trước. Về trình bày, nhà in đăng những danh ngôn thể hiện mục đích và tôn chỉ của báo vào thời điểm đó. Dưới là những bài xã luận, thời sự và bình luận chính trị, đôi khi đăng ở trang 1 tiếp sang trang 3. Trang 2 đăng tiểu thuyết, truyện dịch dài kỳ và quảng cáo. Trang 3 là những bài về tư tưởng, văn hóa, khoa học, phân nửa còn lại là quảng cáo. Trong quá trình làm việc, tòa soạn thiếu người am hiểu nghiệp vụ thiết kế trang báo, trình bày bài vở, dù có rút kinh nghiệm và tham khảo đồng nghiệp để cải tiến nhưng Tiếng Dân vẫn không hấp dẫn về mặt hình thức. Từ cuối tháng 4 năm 1936, báo có mục "Việc các tỉnh" ở Trung Kỳ thay cho mục "Việc trong nước". Những dịp tết và ngày kỉ niệm ra báo hằng năm đều có số đặc biệt, có khi nâng lên thành 6 trang.

Quan điểm

Vụ án Truyện Kiều

Với xu hướng hoài cổ, Tiếng Dân thể hiện những quan niệm văn học mang tính bảo thủ, cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức, Huỳnh Thúc Kháng đã rất cố gắng sử dụng chữ Quốc ngữ để diễn đạt trên báo, nhưng ông vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của cấu trúc văn chương biền ngẫu, và chính ông lại ra sức bảo vệ nó, ông viết: "văn dùng điển gần như thông lệ của nhà văn, nên thiếu nó không khác gì nhà nghèo thiếu gạo". Về nội dung, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng văn chương phải có sứ mệnh giáo huấn, vì vậy, ông cương quyết lên án chủ nghĩa lãng mạn, đả kích mạnh mẽ các tác phẩm hư cấu là "vị thuốc độc cùng đạo bùa mê cho tinh thần". Với trào lưu thơ mới, ông tỏ ra bất bình và xem đây là thứ thời thượng u mê. Huỳnh Thúc Kháng đã dành cho thơ cổ điển một vị trí lớn trên báo Tiếng Dân, nhưng ông đặc biệt phê phán Truyện Kiều. Ông đã dùng Tiếng Dân để công kích nhân vật nàng Kiều và Phạm Quỳnh – một người hết lòng ca ngợi Truyện Kiều bằng lời lẽ khắc nghiệt: "Con đĩ Kiều kia, có cái giá trị gì? Người tô vẽ Kiều kia có công đức gì mà hoan nghênh". và "Truyện Kiều là thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại". Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa, Huỳnh Thúc Kháng đả kích truyện Kiều vì quan niệm "văn dĩ tải đạo" của nhà Nho, và góc nhìn của ông Kháng với Phạm Quỳnh là "có công đức gì mà hoan nghênh". Thái độ khắc nghiệt của Huỳnh Thúc Kháng với Truyện Kiều là nguyên nhân gián tiếp của việc tờ Tiếng Dân đình bản. Cuối năm 1942, chính quyền thuộc địa yêu cầu các báo Việt Nam ca ngợi nhân vật Kiều để kỷ niệm Nguyễn Du. Huỳnh Thúc Kháng viết một loạt bài, nhưng không phải để ca tụng mà là gièm pha tác phẩm này, tất cả đều bị Sở Kiểm duyệt lược bỏ chỉ còn lại mỗi một bài. Sau đó, ông viết một bài khác trong đó mở đầu bằng cách khen ngợi giá trị văn chương của Truyện Kiều, nhưng phần cuối lại phê phán toàn bộ tác phẩm, đặc biệt lên án khuynh hướng chung (mà ông coi là đáng trách) muốn coi Truyện Kiều là biểu tượng của quốc hồn quốc túy Việt Nam. Phần cuối bị chính quyền kiểm duyệt và chỉ cho phép đăng phần đầu, nhưng ông Kháng lại rút toàn bộ bài. Ngay lúc ấy Toàn quyền Decoux ký quyết định đình bản tờ Tiếng Dân vào tháng 4 năm 1943.

Chính trị

Khác với phần tử cấp tiến của giai đoạn những năm 1920 – 1930, Huỳnh Thúc Kháng chủ trương một phương pháp tiến hành tuần tự, bất bạo động trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Ông tỏ ra trung thành với quan điểm văn hóa của phong trào Duy Tân và nghĩ rằng bối cảnh chính trị Việt Nam không cho phép thực hiện hành động chính trị. Trong một bài báo viết năm 1928, ông bày tỏ ý kiến không muốn người Pháp rời Việt Nam, không tán thành người Việt đuổi người Pháp về vì không phù hợp với thời đại mới, và không có chủ trương giành độc lập dân tộc. Sau vụ ám sát Bazin ngày 9 tháng 2 năm 1929, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng hoạt động tại Hà Nội bị bắt. Cuộc điều tra kéo dài đến tháng 7 năm 1929 Hội đồng đề hình mới đem ra xét xử, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng nguyên nhân của sự kiện này là do chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, nhất là với tầng lớp thanh niên, sinh ra hành động yêu nước và giành độc lập dân tộc; không phải từ mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc Pháp, từ truyền thống ái quốc và tinh thần độc lập dân tộc trong lịch sử nên dẫn tới cách mạng giải phóng dân tộc. Sau sự kiện khởi nghĩa Yên Bái, Tiếng Dân đăng bài phân tích nguyên nhân, gọi Việt Nam Quốc dân Đảng là "đảng phiến động".

Đối với hoạt động cộng sản, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng chủ nghĩa cộng sản không áp dụng được tại Việt Nam. Ngày 2 tháng 3 năm 1929, Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam rải truyền đơn phản đối Trung Quốc Quốc dân Đảng bắt giữ người Việt ở Quảng Châu và Hoàng Phố. Ông Kháng viết bài chỉ trích "nạn truyền đơn" – một phương thức cổ động tuyên truyền của các tổ chức cách mạng theo xu hướng chủ nghĩa cộng sản. Ông cho rằng "chân tướng cùng nội dung tờ truyền đơn" là "do vài ba đứa trẻ con nào đó; thấy đâu nói đó, nói cho sướng mồm, gây chuyện lợi cho mình, vu hãm lương dân". Sau khi truyền đơn kỉ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga của Đảng Cộng sản được rải nhiều nơi tại Trung Kỳ, Tiếng Dân tiếp tục đăng bài phê phán vụ truyền đơn và chủ nghĩa cộng sản, cho rằng "chủ nghĩa cộng sản không hợp với tình thế tại xứ ta; với tình thế như trên, công cuộc cộng sản thiệt còn chưa hiệp [hợp] với tình thế như trên, [...] huống gì là cộng sản giấy". Trong bài báo xuất bản tháng 11 năm 1929, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng chủ nghĩa cộng sản chính là người Nga. Nga tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản sang châu Âu, nơi xung đột giữa lao động và tư bản, đồng thời truyền sang châu Á, là "nơi các xứ dân tộc hèn yếu, dụ khuyên theo chủ nghĩa ấy để khuấy rối các nước đế quốc". Tầng lớp thanh niên tin vào chủ nghĩa cộng sản "đều là hạng nghe theo", không có ai [tại Việt Nam] xứng cái danh "chủ động cộng sản". Sau năm 1930, Huỳnh Thúc Kháng không công kích những chủ trương và hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương mà chỉ giữ thái độ bàng quan. Những người cộng sản viết bài gửi đăng báo Tiếng Dân, ông vẫn nhận và công bố bình thường như mọi tác giả khác.

Kiểm duyệt

nhỏ|241x241px|Một bài báo bị đục bỏ. Vào thời kỳ này, báo chí quốc ngữ đều phải được nhà chức trách duyệt nội dung rồi mới được đem in, nhiều báo bị kiểm duyệt phải thay bài bằng cách in quảng cáo. Nhưng Tiếng Dân lại còn bị đặt dưới một chế độ đặc biệt không áp dụng với mọi tờ báo quốc ngữ nào khác trong Nam hay ngoài Bắc. Ngày 19 tháng 3 năm 1927, Chánh Sở Liêm phóng Trung Kỳ đệ trình kế hoạch kiểm soát tờ Tiếng Dân, thành lập ban kiểm soát báo do Thông dịch viên Sở Liêm phóng Bùi Văn Cung điều hành. Ban kiểm duyệt này sẽ bảo đảm các bài báo không được xúc phạm chính quyền Pháp, hai ngày trước khi in, các bài báo đều phải dịch sang tiếng Pháp và nộp cho Sở Liêm phóng để kiểm duyệt. Những bài bị kiểm duyệt tờ Tiếng Dân thường đề rõ "Tờ Kiểm duyệt bỏ", những trang sau – trừ vài mẩu quảng cáo – cũng có những mẩu tin ngắn áp dụng cách tương tự để độc giả nhìn thấy, Giáo sư Vũ Ngọc Khánh gọi đây là "cái mưu cao và cái bướng của ông chủ báo". Trong một bức thư gửi Khâm sứ Trung Kỳ năm 1931, Huỳnh Thúc Kháng nêu quan điểm rằng khi cho đăng những bài báo "nói lên nguyện vọng của dân chúng", ông biết trước là sẽ bị kiểm duyệt, nhưng mục đích chính là để sở kiểm duyệt đọc và trình lên nhà chức trách để họ lưu ý đến. Mặt khác, Huỳnh Thúc Kháng từng cho mình là "nhà cách mạng công khai" nên mọi hoạt động cũng theo con đường hợp pháp, những bài báo dù có "phản đối cường quyền, chủ trương chánh học, bài bác tà thuyết" nhưng về cơ bản chưa động chạm gì đến quyền lợi của người Pháp. Mặc dù chủ bút Huỳnh Thúc Kháng có thái độ bàng quan với chủ nghĩa cộng sản, thậm chí có hướng thân Pháp và bị Đảng Cộng sản Đông Dương lên án, chính quyền Pháp vẫn muốn kiểm soát chặt chẽ tờ báo.

Ngày 1 tháng 1 năm 1935, Toàn quyền René Robin ký Nghị định bỏ kiểm duyệt báo chí quốc ngữ nhưng vẫn còn siết chặt việc ra báo, việc công bố nghị định khiến giới làm báo "vừa mừng, vừa lo". Tiếng Dân đăng bài bình luận về sự kiện này, đồng thời phê phán nhận thức rằng kiểm duyệt là một đặc ân của người làm báo, vì trước khi bài được đăng đã có ty kiểm duyệt xét, nên tờ báo bớt lo ngại về mặt pháp luật. Tác giả nêu dẫn chứng lúc báo chí còn bị kiểm duyệt vẫn bị chính quyền truy tố, và cho rằng "những người lo ngại cho sự hiểm nghèo của tí tự do thừa kia [...] hẳn là hạng người không xứng đáng thiên chúc của người cầm bút, vì họ không đủ can đảm mà chịu trách nhiệm về những bài vở mà họ viết ra". Đến thời kỳ vận động dân chủ và đòi quyền tự do ngôn luận, Tiếng Dân đăng bài so sánh chế độ báo chí tại Pháp và Việt Nam và đề ra yêu sách: bỏ sắc lệnh ngày 30 tháng 12 năm 1998 và ngày 4 tháng 10 năm 1927; thực hiện luật báo chí ngày 29 tháng 7 năm 1891. Năm 1937, Xứ ủy Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức hội nghị toàn thể báo giới Trung Kỳ, chủ đề của cuộc họp là "đòi tự do báo giới và lập nghiệp đoàn báo giới", đoàn đại biểu tờ Tiếng Dân là một trong hai đoàn đại biểu đông nhất của giới báo chí. Ngày 28 tháng 4 năm 1943, tờ Tiếng Dân bị đình bản vì không hưởng ứng phong trào "tán dương văn chương truyện Kiều" do Sogny khởi xướng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Báo **_Tiếng Dân_** là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947), một nho gia thuộc trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn
Báo **_Nhân Dân_** là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Được xem là "_Cơ quan trung ương, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam_". ## Phát hành
**_Quân đội nhân dân_** là một nhật báo trực thuộc Tổng cục Chính trị đại diện cho tiếng nói của Lực lượng Vũ trang nhân dân Việt Nam, đây cũng là cơ quan của Quân
**Tưởng Dân Bảo** (1907-1947), bí danh **Võ Văn Tính**, là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông là một trong những thành viên quan trọng của Việt Nam Quốc dân Đảng trong thời kỳ mới
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các
**_Đại biểu Nhân dân_** là cơ quan ngôn luận trực thuộc Văn phòng Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho tiếng nói của Quốc hội và cũng
**Wikipedia tiếng Đan Mạch** (Phát âm: /ˈdænɪʃ/ DAH-nish) là một phiên bản Wikipedia, một bách khoa toàn thư mở. Nó là một văn bản kỹ thuật số do Wikipedia cộng đồng tạo nên và được
**Tiếng Pháp** (, IPA: hoặc , IPA: ) là một ngôn ngữ Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Giống như tiếng Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, România, Catalonia hay một số khác, nó xuất phát
thumb|Bản đồ thể hiện các quốc gia sử dụng nhiều tiếng Indonesia. Xanh đậm = quốc gia, xanh nhạt = được nói bởi > 1%. thumb|Một người nói tiếng Indonesia được ghi âm ở [[Hà
Trong các nền văn hóa, **hình tượng các loài báo** được biết đến qua văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây văn hóa châu Phi, châu Mỹ của người da đỏ. Với sự đa
**Văn hóa Đan Mạch** có một di sản kiến thức và nghệ thuật phong phú. Các khám phá thiên văn của Tycho Brahe (1546–1601), Ludwig A. Colding (1815–1888) đã khớp nối định luật bảo toàn
**Chính tả tiếng Việt** là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây là một hệ thống quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng
**Tiếng Phạn** hay **Sanskrit** (chữ Hán: 梵; _saṃskṛtā vāk_ संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là _saṃskṛtam_ संस्कृतम्) là một cổ ngữ Ấn Độ và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như
thumb thumb|Cổ tranh 21 dây của Trung Quốc thumb|Đàn zither phương Tây thumb|Trình diễn đàn tranh tại Paris **Đàn tranh** (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là **đàn thập lục**
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
**Lịch sử báo chí Việt Nam** bắt đầu từ khi người Pháp đặt nền móng thực dân tại Nam Kỳ vào khoảng năm 1862. Lịch sử báo chí Việt Nam phát triển qua nhiều giai
**Đài Tiếng nói Việt Nam** (**TNVN**), cũng được gọi là **VOV** (viết tắt từ tên ), là đài phát thanh quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam, có nhiệm vụ "tuyên truyền đường lối,
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
nhỏ|346x346px| Tay trống heavy metal Nhật Bản [[Yoshiki (nhạc sĩ)|Yoshiki tại Madison Square Garden ]] Một **dàn trống** - còn được gọi là **bộ trống** hoặc đơn giản là **trống** - là một bộ trống
**Báo hoa mai tấn công** chỉ về những cuộc tấn công vào con người và gia súc, vật nuôi của loài báo hoa mai. Những vụ việc tấn công chủ yếu xảy ra ở Ấn
**Đỗ Bảo** (tên đầy đủ là **Đỗ Quốc Bảo**, sinh ngày 30 tháng 6 năm 1978 tại Hà Nội) là nhạc sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Việt Nam. Anh là một trong
**Tiếng Catalunya** (_català_, hay ) là một ngôn ngữ Rôman, ngôn ngữ dân tộc và là ngôn ngữ chính thức của Andorra, và là một ngôn ngữ đồng chính thức ở những cộng đồng tự
**_Tuổi Trẻ_** là một nhật báo của Việt Nam trực thuộc Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Tờ báo đã phát triển thành một tổ hợp truyền thông đa phương tiện bao gồm hệ
**Tiếng Java** (, **'; ) (trong cách nói thông tục là , **'; ) là ngôn ngữ của người Java tại miền đông và trung đảo Java, Indonesia. Cũng có những nhóm người nói tiếng
**Thành phố Paris** hiện sở hữu hệ thống gồm hơn 136 bảo tàng, trong đó có 14 bảo tàng thuộc Hiệp hội bảo tàng quốc gia và 14 bảo tàng do chính quyền thành phố
thumb|Nhạc công chơi đàn tỳ bà trong một buổi hoà nhạc ở Quảng Châu. **Đàn tỳ bà** (chữ Hán: 琵琶; bính âm: pípá, romaji: biwa, tiếng Hàn: bipa) là một nhạc cụ dây gảy của
**_Sóng hấp dẫn_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ Hoàng Quyên, được phát hành vào ngày 13 tháng 3 năm 2018 bởi Nhà xuất bản văn hóa dân tộc và Nhà xuất
**Báo hoa mai Đông Dương** (_Panthera pardus delacouri_) là một phân loài của báo hoa mai bản địa của lục địa Đông Dương và phía nam Trung Quốc. Trên thế giới báo hoa mai Đông
Dưới đây là **danh sách** các chương trình phát thanh, truyền hình đã và đang được phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, được chia theo kênh và trạng thái phát sóng. Danh sách
**Bảo Định** (tiếng Trung giản thể: 保定市) là một địa cấp thị của tỉnh Hà Bắc, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 150 km về phía tây nam. Bảo Định có diện tích 22.185 km² (8.566
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
**Bảo hiểm** (Tiếng Anh: _insurance_, Chữ Hán: 保险) là một phương thức cũng như một ngành nghề liên quan tới sự bảo vệ và đền bù trước những tổn thất tài chính. Đó là hình
**Đài Phát thanh – Truyền hình và Báo Bình Phước** là cơ quan truyền thông báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước. Đài được thành lập năm 1997. Đến nay, Đài
Tự động tắt máy trong 10 giây, lưu trữ dữ liệu, nhắc báo động khi nhiệt độ cao hơn 37.5 ° C. Đo một nút bấm, màn hình LCD lớn, ngay cả trẻ em hoặc
Tự động tắt máy trong 10 giây, lưu trữ dữ liệu, nhắc báo động khi nhiệt độ cao hơn 37.5 ° C. Đo một nút bấm, màn hình LCD lớn, ngay cả trẻ em hoặc
Tự động tắt máy trong 10 giây, lưu trữ dữ liệu, nhắc báo động khi nhiệt độ cao hơn 37.5 ° C.Đo một nút bấm, màn hình LCD lớn, ngay cả trẻ em hoặc người
**Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam** () là tổ chức sự nghiệp trực thuộc **Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam**, có chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê,
**Chủ nghĩa bảo thủ** (tiếng Pháp: _conservatisme_, tiếng Anh: _conservatism_, gốc từ tiếng Latinh _conservo_ — giữ gìn) là các triết lý chính trị và xã hội thúc đẩy các thiết chế xã hội truyền
**Henrik, Vương phu Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Prinsgemål Henrik av Danmark_; sinh 11 tháng 6, 1934 - ngày 13 tháng 2 năm 2018), tên khai sinh **Henri Marie Jean André de Laborde de Monpezat**,
[[Tập tin:English language distribution.svg|nhỏ|upright=2| Các quốc gia trong đó tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức (de facto hoặc de jure). ]] Khoảng 330 đến 360 triệu người nói tiếng Anh là ngôn ngữ đầu
**Báo điện tử tiếng Việt** là các loại hình báo điện tử (online) bằng tiếng Việt. Theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, tính đến năm 2022, cả nước Việt
**Tiếng Bảo An** (phát âm: , _Baonang_; tiếng Trung: 保安语, _Bǎo'ānyǔ_; tiếng Tạng Amdo: Dorké) là ngôn ngữ Mông Cổ của người Bảo An ở Trung Quốc. Tính đến năm 1985, nó được nói bởi
**Âm vị học tiếng Pháp** là ngành nghiên cứu hệ thống ngữ âm của tiếng Pháp. Bài viết này thảo luận về tất cả các biến thế của tiếng Pháp tiêu chuẩn. Các đặc trưng
**Dân chủ tại Việt Nam** đề cập đến tình hình dân chủ và các vấn đề liên quan đến dân chủ tại Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
**Đàn nguyệt** (, Hán Việt: nguyệt cầm) - là nhạc cụ dây gẩy xuất xứ từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, trong Nam còn gọi là **đờn kìm**. Loại đàn này có
**Đông Đan** (926-936) (東丹, tiếng Khiết Đan:**Dan Gur**, Hán tự: 东丹, Hangul:동단) là một vương quốc do người Khiết Đan lập nên để kiểm soát địa hạt của vương quốc Bột Hải, phía đông Mãn
**Tiếng Livonia** ( hay ) là một ngôn ngữ Finn. Đây là một ngôn ngữ tuyệt chủng, người cuối cùng nói tiếng Livonia như tiếng mẹ đẻ đã mất năm 2013. Nó có quan hệ
Tã dán Caryn Siêu thấm XL10 76-130CM-MẪU MỚI Chống Kháng KhuẩnDành cho người hạn chế khả năng đi lạiTã dán người lớn Caryn là cách chăm sóc tốt nhất cho người dùng hạn chế khả
nhỏ|413x413px|"Quốc ngữ" (國語, _Guóyǔ_) được viết bằng chữ Hán phồn thể và giản thể, tiếp theo là bính âm Hán ngữ, Gwoyeu Romatzyh, Wade–Giles và Yale|thế= **Latinh hóa tiếng Trung Quốc** là việc sử dụng
Lưu Ý:Gói Siêu Khủng Tã dán Caryn Siêu thấm M-L40 68-122CM- MẪU MỚI Chống Kháng KhuẩnDành cho người hạn chế khả năng đi lạiTã dán người lớn Caryn là cách chăm sóc tốt cho người