✨Thủy Xá - Hỏa Xá
thumb|Lãnh thổ Thủy Xá (水舍) và Hỏa Xá (火舍). Thủy Xá - Hỏa Xá (chữ Hán: 水舍 - 火舍) là tên gọi trong sử ký của triều Nguyễn để chỉ tiểu quốc Jrai của người Jrai - Eđê trên cao nguyên Pleiku từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 19. Thủy Xá và Hỏa Xá được cai trị bởi hai tiểu vương vua nước Thủy Vương và vua lửa Hỏa Vương (Tiếng Khmer là Sdet Tik - Sdet Phlong, Tiếng Lào là Sadet Fai - Sadet Nam, Tiếng Êđê là Mtao Êa - Mtao Pui, Tiếng Jrai là Ptao Ia - Ptao Apui) cai trị. Ngoài ra, còn 1 vị Pơtao ít được biết đến nữa là Pơtao Angin (Gió) (Tiếng J'rai).
Lịch sử
Theo kí thuật của tác gia Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục: :Hai vị Thủy Vương và Hỏa Vương nước Nam Bàn, nước này có 50 làng lệ thuộc, trong đó có núi Bà Nam. Núi rất cao và lớn, làm trấn sơn cho một phương. :Thủy Vương ở về phía đông núi Bà Nam, còn Hỏa Vương ở về phía tây núi, có địa phận riêng và làm nhà gác bằng gỗ để ở, bộ hạ có đến mấy trăm người. :Khi vua đi đâu thường cưỡi voi, có hơn chục người tùy tùng đi theo, đến làng nào thì đánh ba hồi chuông, dân làng đều ra, họ làm một cái lều tranh cho vua ở (vì kiêng không vào nhà dân). Họ dâng lên vua những thứ như: nồi đồng, tấm vải trắng, hoặc một cây mía, một nải chuối chẳng hạn. Vua cứ việc nhận lấy các lễ vật ấy không nề hà gì. Thu nhận lễ vật cũng không ghi chép gì, xong thì nhà vua đi. :Hải Vương mặt đen và xấu nhưng vợ và thiếp thì người nào cũng có nhan sắc đẹp đẽ, họ đều bận xiêm áo của Chiêm Thành có xiêm hoa rực rỡ.
Thủy Xá và Hỏa Xá ở hai địa điểm khác nhau: xã Chư A Thai, huyện Ayun Pa (phía Nam tỉnh Gia Lai) và xã Ia Lốp, huyện Ea Súp (phía tây bắc tỉnh Đắk Lắk). Mỗi ông có tầm ảnh hưởng trong một vùng và không được gặp nhau, nếu không sẽ phải một mất một còn.
Thời chúa Nguyễn, theo Đại Nam thực lục:
Tân mùi, năm thứ 13 [1751] [đời chúa Nguyễn Phúc Khoát], mùa hạ, tháng 5, ... Thủy Xá 水舍, Hỏa Xá 火舍 vào cống. Hai nước ở phía trên nước Nam Bàn 南蟠 (khi Lê Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, dòng dõi nước ấy làm vua nước Nam Bàn, cắt cho đất từ núi Thạch Bi về phía tây), thôn lạc có hơn năm chục, giữa có núi Bà Nam 婆南山 rất cao, vua Thủy Xá ở phía đông núi, vua Hỏa Xá ở phía tây núi. Buổi quốc sơ, vì cớ họ giáp giới với Phú Yên, cứ 5 năm một lần sai người đến các nước ấy cho quà (áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt và chén đĩa bằng sứ). Vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa phẩm vật địa phương (kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực) để hiến. Tới đây sai sứ sang cống. Chúa hậu tứ rồi cho về.
Quan hệ với nhà Nguyễn
Gia Long
Mối quan hệ này được giữ vững từ thời các chúa Nguyễn sang thời nhà Nguyễn. Thời Gia Long, theo Đại Nam thực lục:
Quý hợi, Gia Long năm thứ 2 [1803], ... hai nước Thủy Xá Hỏa Xá, sai sứ đến quy phục, sứ giả đến Phú Yên. Dinh thần tâu lên, vua sai ban áo gấm và xuyến ngà rồi cho về.Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất [1841], mùa xuân, tháng 3, Đổi lại danh hiệu hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá. Hai nước này xưa gọi là Nam Bàn, là dòng dõi Chiêm Thành, Lê Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, lập cho con cháu vua nước ấy gọi là nước Nam Bàn, ở phía tây núi Thạch Bi.Nước Thủy Xá : phía tây giáp nước Hỏa Xá, đông giáp đồn Phước Sơn tỉnh Phú Yên và bọn Man chịu thuế ở Thạch Thành, bắc giáp bọn Man chưa quy phục ở Bình Định.
Nước Hỏa Xá: phía đông giáp Thủy Xá, tây giáp đất Sơn Phủ thành Trấn Tây, bắc giáp bọn Man có bộ lạc nhất định. Khi bản triều mới bắt đầu dựng nước, thường cứ 5 năm một lần sai sứ tiến cống sản vật địa phương (nước Hỏa Xá không thể tự đến được, phụ với nước Thủy Xá). Được nước ta thưởng cho thứ gì, họ đều lưu truyền lại làm của báu đời đời. Đầu năm Gia Long [1802-1819], sứ của nước ấy đến Phú Yên, được thưởng cho rất hậu và cho về nước. Sau, vì nước ấy không yên, không sai sứ đến cống được.
Năm Minh Mệnh thứ 12 [1831], nước Thủy Xá mới sai sứ đến cống, người thông dịch lại nói nhầm là Hỏa Xá, triều đình nhân theo cũng cho là Hỏa Xá. Đến đây, tỉnh thần Phú Yên là Lê Khiêm Quang và Nguyễn Văn Lý vâng lời thánh dụ, sai người đến tận nước ấy, hỏi rõ tình trạng rồi tâu lên. Lại tâu rằng: “Nước Thủy Xá liệt vào hàng chức cống của nước ta đã gần 20 năm nay, chỉ vì người thông dịch nhầm “thuỷ” ra “hoả”. Quốc trưởng nước ấy là Vĩnh Liệt vẫn không yên lòng, xin đổi tên nước ấy lại cho đúng. Nước Hỏa Xá cũng ngưỡng mộ đức hoá của nhà vua đã lâu, nhưng không thể tự đến được. Quốc trưởng nước ấy là Ma Thát cũng muốn phụ với nước Thủy Xá hợp nhau dâng lễ cống như lệ cũ".
Vua phán rằng : “Hoàng khảo ta uy đức rộng khắp. Những người tuy ở cõi xa, nơi hoang, chẳng ai không muốn dâng bày lễ cống ở trước sân, cũng tỏ lòng thành tôn kính bề trên. Thủy, Hỏa vốn là hai nước, nước Hỏa nhỏ mà ở xa, nước Thủy ở gần mà lại to, năm trước vào cống, nói là nước Hỏa, chứ không nói nước Thủy. Hoàng khảo ta là bậc thánh minh, đã lấy làm ngờ, biết là thế nào cũng có duyên cớ ; cho nên bắt đầu sai quan thành Trấn Tây, rồi lại sai quan tỉnh Phú Yên (năm Minh Mệnh thứ 21 [1840] mùa thu, sai quan ở thành Trấn Tây và tỉnh Phú Yên cho người đến hỏi sự trạng nước Thủy Xá, hỏi đi hỏi lại, cốt để biết rõ tình trạng, đến nay quả nhiên như thế. Vậy, giao cho bộ Lễ bàn luận cho kỹ, nếu là nhầm thì đổi lại cho đúng, nước nào đến cống thì tiến dẫn cho họ. Còn việc tiến cống chung nhau, ba năm một lần sai sứ đến, đều cho tuỳ ý để người xa, được thoả lòng thành”.
Khi tờ dụ đưa đến, cả hai nước đều rất mừng, xin đến tháng 6 sai sứ đến Kinh (một người sứ sang làm lễ tiến hương, một người sứ sang mừng vua lên ngôi). Vua ưng cho. Rồi ban cho Quốc trưởng nước Hỏa Xá là Ma Thát : họ là Cửu, tên là Lại, để tỏ mệnh lệnh mới. Lại thưởng cho phái nhân của tỉnh Phú Yên là bọn Nguyễn Văn Quyền và Đặng Văn Hoạt có thứ bậc.
Hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá cống chung với nhau bắt đầu từ đây (các phẩm vật đem cống : nước Thủy Xá thì cống 2 chiếc ngà voi, 2 cái sừng tê. Nước Hỏa Xá thì cống 1 chiếc ngà voi, 1 sừng tê. Cứ đến năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì nước Thủy Xá phải chọn sai người đi sứ và mang cả phẩm vật của hai nước đến tỉnh Phú Yên làm lễ tiến cống. Theo lệ, thưởng cho Quốc vương nước Thủy Xá 1 cái khăn nhiễu màu lam dài 8 thước, áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng 1 cặp, áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp 1 cái, áo sa dày màu lam, màu trắng tay hẹp 1 cặp, áo sa nam toàn tơ, tay hẹp các màu 5 chiếc, quần nhiễu màu lam, màu hồng mỗi màu 1 chiếc, quần lụa nam màu cánh kiến 2 chiếc, 1 bộ đồ uống rượu có 1 cái nậm, 3 cái chén, 1 cái khay. Quốc vương nước Hỏa Xá được 1 cái khăn nhiễu màu lam dài 8 thước, áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng 1 cặp, áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp 1 chiếc, áo sa nam toàn tơ, tay hẹp các màu 3 chiếc, quần nhiễu màu lam, màu hồng mỗi màu 1 chiếc, 1 bộ đồ uống rượu. Lại cấp cho Quốc vương hai nước đều 1 cặp áo mãng tam phẩm về võ giai. Thưởng cho Nguyễn Văn Quyền làm Đội trưởng ở tỉnh ấy, Đặng Văn Hoạt làm Cửu phẩm thư lại, bọn tuỳ phái, thông ngôn, mỗi người 1 cặp áo bằng nhiễu nam vải Tây dương và 10 lạng bạc).
Tự Đức
Thời Tự Đức, theo Đại Nam thực lục:
Mậu Thân, Tự Đức năm thứ nhất [1848], ban sắc thư và lụa màu cho nước Thủy Xá và Hỏa Xá. Vua nước Thủy Xá là Vĩnh Liệt, kỳ mục nước Hỏa Xá (vua nước ấy còn khuyết chưa lập) xin sai sứ đến dâng hương và chúc mừng.Tuy nhiên đến cuối thế kỷ 19, vào năm 1898 sau khi chiếm được Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp bắt đầu tổ chức cai trị trực tiếp ở đây. Các vị tiểu vương đã tổ chức chống lại và viên thanh tra Prosper Odend đã bị vua Hỏa Xá Po At giết vào năm 1904. Tuy nhiên trước sự tấn công của viên sĩ quan Vincillionni kế tiếp, vua Po At đã phải chạy trốn và vai trò tiểu vương Hỏa Xá Thủy Xá chính thức chấm dứt tồn tại.Tân Hợi, Tự Đức năm thứ 4 [1851], nước Hỏa Xá tôn Châm La làm vua. (Vua trước nước ấy là Cửu Lại, chết vào khoảng năm Thiệu Trị, không con, chưa có tôn ai lên. Châm La là cháu ngoại gọi Cửu Lại là cậu, ngày tháng 10 năm ngoái, dân Mán theo tục đem dây vải trói tay, đúng hạn không đứt, ngày tháng 3 năm nay lập làm Quốc vương. Nhân vì nước ấy có bệnh dịch đậu, nên đến đây mới báo).
Nhâm Tý, Tự Đức năm thứ 5 [1852], nước Thủy Xá, Hỏa Xá sai sứ thần là bọn Thế Kiều Mộc đến tiến cống (ngà voi và sừng tê). Vua cho là 2 nước ấy đường xa lại gặp năm mất mùa, cho làm lễ ở hành cung tỉnh Phú Yên, ban cho rồi cho về. Khi ấy vua mới nước Hỏa Xá là Châm La mới lập, đặc biệt cho họ là Cửu tên Hạ, để tỏ ra sắc mệnh yêu quý.
Giáp Tý, Tự Đức năm thứ 17 [1864], Quốc trưởng nước Thủy Xá là Vĩnh Liệt chết, người trong nước lập cháu họ Vĩnh Liệt là Xiếu Vuốt lên thay, xin cùng với nước Hỏa Xá sang năm đến cống. Vua sai vẫn để họ Vĩnh, cho tên là Tuân.
Mậu Thìn, Tự Đức năm thứ 21 [1868], Hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá dâng lễ mừng, hai nước ấy năm trước gặp nạn đói kém, lệ cống hoãn đến năm nay, đến nay uỷ Chánh Phó sứ là Kiều Linh, Sơn Lý đến Phú Yên tiến dâng đồ cống và lễ mừng. (Đồ cống của nước Thủy Xá, 2 cái ngà voi, 2 cái sừng tê và lễ mừng 1 cái ngà voi ; đồ cống của nước Hỏa Xá, 1 cái ngà voi, 1 cái sừng tê và lễ mừng 1 cái ngà voi). Quan bộ Lễ tâu nói : Năm nay kính gặp Khánh tiết, đã ban Dụ bảo, phàm tất cả chầu mừng tiến dâng, yến nhạc, bày đặt phù phí đều bãi bỏ hết, nhưng 2 nước ấy ở xa hẻo lánh, tiêm nhiễm thanh giáo đã lâu, kính sửa lễ nghi tiến dâng là do lòng thành, nếu cho đình bãi, không phải để vui lòng người phương xa. Vua y lời tâu ấy (đến ngày làm lễ mừng, chuẩn cho đạo Phú Yên không phải về Kinh).