✨Thiên hoàng Junna

Thiên hoàng Junna

là Thiên hoàng thứ 53 của Nhật Bản theo danh sách truyền thống thứ tự kế thừa. Triều đại Junna trị vì từ kéo dài từ năm 823 đến 833.

Tường thuật truyền thống

Ông là con trai thứ ba của Thiên hoàng Kanmu, em trai của hai Thiên hoàng tiền nhiệm là Heizei và Saga. Tên thật của ông là hoàng tử Otomo, dường như tên Otomo trùng tên với Thiên hoàng yểu mệnh Kōbun (671 - 672, ông này mang tên Otomo) mà lý do vì sao thì chưa rõ.

Năm 810, sau sự kiện Kosuko nhằm phục ngôi cho cựu hoàng Heizei, hoàng tử Otomo được Thiên hoàng Saga bầu làm Thái tử.

Lên ngôi

Ngay sau khi anh trai là Thiên hoàng Saga vừa thoái vị, Otomo lên ngôi lấy hiệu là Thiên hoàng Junna vào ngày 30/5/823. Bắt chước vua tiền nhiệm, ông sử dụng lại niên hiệu trước đó là Konin (tháng 6/823 - tháng 1/824)

Đầu năm 823 (niên hiệu Konin thứ 10 thời Junna), Junna đề cử con trai của người anh - cựu Thiên hoàng Saga, là hoàng tử Masara làm người kế vị mình.

Từ năm 823, vua Bột Hải Tuyên Vương của vương quốc Bột Hải đã nhiều lần cử sứ thần sang Nhật Bản nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như các tuyến thương mại. Các sứ thần Bột Hải giành được sự công nhận thiện chí tại Nhật Bản mặc dù Nhật Bản có cảnh báo Bột Hải rằng cần hạn chế các phái đoàn vì chúng mang đến gánh nặng tiếp đón. Tuyến thương mại Bột Hải - Nhật Bản qua Biển Nhật Bản trở thành một trong những tuyến thương mại quan trọng nhất của Nhật Bản, khiến cho Bột Hải trở thành một trong những đối tác thương mại quan trọng nhất của Nhật Bản.

Sau khi dẹp xong hải tặc ở bờ biển tây nam Tân La (đời vua Tân La Hưng Đức Vương) năm 826, cộng với việc đang sở hữu một hạm đội tư nhân đáng gờm có trụ sở tại Thanh Hải trấn (Cheonghaejin) thuộc Tân La, Trương Bảo Cao đã gửi thư về kinh đô Kim Thành (Khánh Châu - Gyeongju) thỉnh cầu vua Tân La Hưng Đức Vương thành lập một đơn vị đồn trú hàng hải vĩnh viễn để bảo vệ các hoạt động buôn bán của người Tân La ở trên biển Hoàng Hải. Sau đó Trương Bảo Cao ở đảo Thanh Hải mở cứ điểm buôn bán, thiết lập mạng lưới mậu dịch giữa nhà Đường (đời vua Đường Kính Tông), Tân La (đời vua Tân La Hưng Đức Vương) và Nhật Bản. Mùa xuân năm 828 sau hai năm mở mạng lưới mậu dịch trên biển giữa nhà Đường (đời vua Đường Văn Tông), Tân La (đời vua Tân La Hưng Đức Vương) và Nhật Bản, Trương Bảo Cao đã phát triển Thanh Hải thành trung tâm thương mại lớn nhất Tân La. Tàu bè người Ba Tư, nước Đại Tùng quốc cũng cập bến Thanh Hải buôn bán giao thương với Trương Bảo Cao. Trương Bảo Cao luôn đóng thuế rất nhiều cho triều đình Tân La và đóng thuế luôn cho các thương đoàn hoạt động ở Thanh Hải.

Tháng 4 năm 828, Trương Bảo Cao trở thành Đại sứ Thanh Hải trấn. Người Nhật Bản đến Thanh Hải trấn xin Trương Bảo Cao chỉ họ cách đóng tàu bè đi xa vì kỹ thuật đóng tàu của người Nhật Bản lúc này còn hạn chế. Trương Bảo Cao đưa thợ giỏi ở Thanh Hải dạy cho các thương thuyền Nhật Bản cách đóng tàu kiên cố, có thể đi xa từ Nhật Bản đến nhà Đường được. Từ đó về sau người Nhật dần biết cách đóng tàu chuyên nghiệp và mấy thế kỷ sau đưa tàu đi xâm lược lại bán đảo Triều Tiên (1592 - 1598).

Từ năm 830, vua Bột Hải Trang Tông của vương quốc Bột Hải tiến hành các hoạt động thương mại với Nhật Bản.

Đầu niên hiệu Tenchō thứ 10 của Thiên hoàng Junna (22/3/833), Thiên hoàng Junna tuyên bố thoái vị và con trai của người anh - cựu Thiên hoàng Saga, là hoàng tử Masara lên ngôi, lấy hiệu Thiên hoàng Ninmyō.

Ngày 11/6/840, cựu Thiên hoàng Junna qua đời ở tuổi 55. Sau cái chết của ông, quyền thần Fujiwara Yoshifusa bắt đầu chiến dịch vận động cho Montoku lên ngôi Thiên hoàng, chứ không phải hoàng tử Tsunesada trước đó đã được cựu Thiên hoàng đề cử lên ngôi. Sự kiện này đánh dấu gia tộc Fujiwara từng bước lên nắm quyền lực, khuynh đảo chính trường Nhật Bản.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là Thiên hoàng thứ 53 của Nhật Bản theo danh sách truyền thống thứ tự kế thừa. Triều đại Junna trị vì từ kéo dài từ năm 823 đến 833. ## Tường thuật truyền thống
là Thiên hoàng thứ 54 theo danh sách kế thừa truyền thống Nhật Bản. Triều Ninmyō của kéo dài từ 833 đến 850. ## Thiếu thời Ông tên thật là hoàng tử Masara, con trai
còn được gọi khác là là Thiên hoàng thứ 111 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của Go-Sai kéo dài từ năm 1655 đến năm 1663. ## Phả hệ
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
là Thiên hoàng thứ 52 theo truyền thống thứ tự kế thừa truyền thống Nhật Bản. Triều đại của Saga kéo dài từ năm 809 đến năm 823. ## Tường thuật truyền thống Saga là
là Thiên hoàng thứ 50 của Nhật Bản theo danh sách thứ tự kế thừa. Kanmu trị vì từ năm 781 đến 806. ## Tường thuật truyền thống Tên thật (_imina_ ) của Kanmu là
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Đại Kiền Hoảng** (trị vì 857 - 871) là vị quốc vương thứ 12 của vương quốc Bột Hải. Ông là kì đệ của Bột Hải Trang Tông, người mà ông kế vị và là
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Phu nhân** (chữ Hán: 夫人, tiếng Anh: _Lady_ hoặc _Madame_) là một danh hiệu để gọi hôn phối của một người đàn ông có địa vị trong xã hội. Từ _"Phu nhân"_ trong tiếng Việt
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
**Hưng Đức Vương** (mất 836, trị vì 826–836) là người trị vì thứ 42 của vương quốc Tân La. Ông là đệ của Hiến Đức Vương. Ông kết hôn với Định Mục (Jeongmok) vương hậu,
, còn được gọi là , là một sự kiện xảy ra vào đầu thời kỳ Heian. Vào năm 810, Thiên hoàng Saga đã đối đầu với Thái thượng Thiên hoàng Heizei, nhưng phe của
**Đại Di Chấn** (trị vì 830 – 857), là vị quốc vương thứ 11 của vương quốc Bột Hải. Ông là đích tôn của Bột Hải Tuyên Vương, vị quốc vương thứ 10 và là
**Fujiwara no Ryoshi** (藤原 旅子, hay **Fujiwara no Tabiko**; 759 -788) là một phụ nữ quý tộc Nhật Bản sống vào thời kỳ Nara. Bà là phối ngẫu của Thiên hoàng Kanmu và là mẹ
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Bột Hải Thánh Tông** (trị vì 818 - 830) là vị quốc vương thứ 10 của vương quốc Bột Hải. Ông có tên thật là **Đại Nhân Tú** (대인수, 大仁秀, Dae In-su). Trong giai đoạn
**Tachibana no Kachiko** (chữ Hán: 橘嘉智子Quất Gia Trí Tử; 786 – 17 tháng 6, 850), còn gọi **Đàn Lâm Hoàng hậu** (檀林皇后Danrin-kōgō), là một vị Hoàng hậu Nhật Bản, Hoàng hậu của Tha Nga Thiên
**Jang Bo-go** (hangul: 장보고; Hán Việt: Trương Bảo Cao; sinh 787- mất 846) là nhân vật lịch sử người Triều Tiên sống vào cuối thời vương quốc Silla thống nhất. Ông đã thành lập một