✨Thiên hoàng Jingū

Thiên hoàng Jingū

hay còn gọi là là Hoàng hậu theo thần thoại của Thiên hoàng Chūai, người đã giữ nhiệm vụ nhiếp chính và lãnh đạo thực tế từ khi chồng bà chết năm 201 đến khi con trai bà Thiên hoàng Ōjin lên ngôi năm 269.

Cho đến thời kỳ Minh Trị, Thần Công vẫn được coi là Thiên hoàng thứ 15 của Nhật Bản, theo thứ tự nối ngôi truyền thống; nhưng sự xét lại của các sử liệu có thêm khiến tên bà bị bỏ ra khỏi danh sách; và con trai bà, Ứng Thần Thiên hoàng, ngày nay được coi là quốc chủ thứ 15.

Thần thoại

Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của vị Thiên hoàng này. Thần Công được các nhà sử học coi là một "Thiên hoàng thần thoại" vì thiếu thông tin về bà, mà cũng không thể phủ định được việc một người như thế đã từng tồn tại. Hơn nữa, các học giả chỉ biết than thở rằng, ở thời điểm này, không có đủ các bằng chứng để nghiên cứu và thẩm tra kỹ càng hơn. Tên của Thần Công trước khi lên ngôi – nếu bà đã lên ngôi thật – lẽ ra phải là Tức Trưởng Đái Cơ Mệnh (息长带姬命; Okinagatarashi-Hime).

Mặc dù nơi an nghỉ cuối cùng của vị quốc chủ thần thoại này vẫn chưa xác định được, nhưng ngày nay có thể tới viếng Misasagi hay lăng mộ chính thức của Thần Công tại Misasagi-chō, Nara. Kofun-loại lăng mộ hoàng gia đặc trưng, là một hòn đảo hình lỗ khóa có hào nước rộng bao quanh.

Kitabatake Chikafusa và Arai Hakuseki cho rằng thực ra bà là Himiko, Nữ vương kiêm pháp sư vào thế kỷ thứ ba của Vương quốc Yamatai và vì Himiko là một nhân vật lịch sử nên phải được các tác giả Nhật Bản thư kỷ tính là thành viên hoàng gia. Trong giới học giả hiện đại Naitō Torajirō cho rằng bà là Yamatohime-no-mikoto, trong khi Higo Kazuo cho rằng bà là Yamato-totohimomoso-hime.

Năm 1881, Thần Công hoàng hậu trở thành người phụ nữ đầu tiên được in hình trên giấy bạc ngân hàng Nhật Bản; tuy vậy, không còn lưu lại hình ảnh nào của nhân vật huyền thoại này nên hình vẽ Jingu của Edoardo Chiossone hoàn toàn chỉ là phỏng đoán.

Tranh cãi

trái|Jingū Thiên hoàng đặt chân lên miền đất hứa. Tranh năm [[1880 của Yoshitoshi.]]

Thần thoại kể lại rằng bà đã dẫn quân xâm lược Triều Tiên và chiến thắng trở về 3 năm sau đó. Truyện cũng nói rằng, con trai bà đã thụ thai nhưng chưa được sinh ra khi Trọng Ai Thiên hoàng mất. Sau đó 3 năm, đứa bé mới được sinh ra. Cả thời kỳ ít hơn 9 tháng bao gồm 3 "năm" (một vài mùa), ví dụ: 3 vụ thu hoạch, hay nguồn gốc đằng cha của người chồng quá cố của bà vẫn chỉ là bí ẩn và mang tính biểu tượng hơn là thực tế.

Một vài người tin rằng cuộc chinh phạt của Thần Công Hoàng hậu chỉ dựa trên Bia đá Quảng Khai Thổ. Nhưng huyền thoại về cuộc xâm lăng Triều Tiên của Thần Công cũng xuất hiện trong 2 quyển sử ký Nhật Bản thời cổ là Furukoto Fumi viết năm 680 và Yamato Bumi viết năm 720.

Một vài người khẳng định rằng các chữ này đã bị sửa lại và người Nhật đã thêm một số nét vào Bia đá Quảng Khai Thổ. Ngày nay, phần lớn các học giả Trung Quốc và Nhật Bản đều không tin vào thuyết bia đá đã bị cố ý phá hoại dựa trên các nghiên cứu về chính bia đá và trước Sakō và trước khi cọ xát bằng vôi làm hỏng. Các hoạt động quân sự của Nhật, vốn thường diễn ra dưới thời Quảng Khai Thổ được trình bày nguyên một nửa bia đá.

Bức tượng thể hiện hình mẫu lý tưởng hóa của Thần Công Hoàng hậu (1326). Bộ sưu tập của đền [[Aka-ana Hatimangu, tỉnh Shimane.]]

Tống thư của Lưu Tống, do nhà sử học Trung Quốc Thẩm Ước soạn, ghi lại sự hiện diện của người Nhật trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, nhà Lưu Tống, là một triều đại thời cổ ở phía Nam Trung Quốc, ít có quan hệ với khu vực Đông Bắc Á và phần lớn các nhà sử học ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và các nơi khác tin rằng triều đại này có lẽ coi Bách Tế, Tân La, và Yamato Nhật Bản là một. Lỗi này không thể xảy ra với sự quan tâm đến nhà Tùy và Cao Câu Ly vì họ đều là các cường quốc vào thời điểm đó.

Tùy thư nói rằng Nhật Bản cứu viện cho Bách Tế và Tân La.

Theo Tam Quốc Sử Ký (Samguk Sagi), viết năm 1145, A Sân Vuơng gửi con trai mình là Jeonji làm con tin năm 397. Thực Thánh Vuơng của Tân La cử con trai mình làm con tin năm 402; cả hai đều cố giành được trợ giúp quân sự từ Yamato để hai quốc gia này có thể tiếp tục các chiến dịch trước các lời đề nghị này. Quan hệ giữa quốc chủ Nhật Bản và Hàn Quốc trở nên phức tạp hơn khi, theo Nhật Bản thư kỷ, Hoàng tử Triều Tiên Amenohiboko tới Nhật Bản, và trở thành ông nội của Tajima Mori. Liệu phía Triều Tiên có gửi con tin hay họ hàng có quan hệ huyết thống tới Nhật Bản hay không vẫn là vấn đề còn đang tranh cãi.

Không tính huyền thoại về Thần Công hoàng hậu, có 8 Thiên hoàng nữ trị vì và người thừa kế họ phần lớn được chọn trong số những người trong hoàng tộc về phía họ cha, đây là điều lý giải tại sao các học giả bảo thủ cho rằng phụ nữ trị vì chỉ là nhất thời và truyền thống thừa tự nam giới phải được duy trì trong thế kỷ 21. Nguyên Minh Thiên hoàng, có người thừa kế ngai vàng là Nguyên Chính Thiên hoàng, là ngoại lệ duy nhất về cuộc tranh luận thông thường này.

Cơ quan giúp việc cho Hoàng gia đã quy định lăng mộ chính thức của bà nằm tại Saki no Tatanami no ike no e no Misasagi ở Nara trước kia là tỉnh Yamato.

nhỏ|Giấy bạc in hình Thần Công Hoàng hậu, năm 1881.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
hay còn gọi là là Hoàng hậu theo thần thoại của Thiên hoàng Chūai, người đã giữ nhiệm vụ nhiếp chính và lãnh đạo thực tế từ khi chồng bà chết năm 201 đến khi
là Thiên hoàng thứ 14 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Thiên hoàng Chūai được phần lớn các nhà sử học coi là một nhân vật thần thoại, và cái tên
, hay thường gọi là _Ōjin ōkimi_ là Thiên hoàng thứ 15 của Nhật Bản, theo thứ tự kế vị truyền thống. Không có ngày tháng chắc chắn về cuộc đời và triều đại của
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
là Thiên hoàng thứ 86 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại này kéo dài từ năm 1221 đến năm 1232. ## Phả hệ Trước khi lên ngôi, ông có
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
Tại Nhật Bản, là tước vị được dành cho chính thất của Thiên hoàng, khi một người phụ nữ ngồi vào ngôi vị Nhật hoàng, bà ta sẽ được gọi là hay . Nhật Bản
là một nữ vương của nước Yamatai, một vùng của nước Yamato cổ đại. Bà còn được gọi là **Thân Ngụy Oa Vương** (親魏倭王; Shingiwaō) - do hoàng đế nước Ngụy phong hiệu. Trong các
Một trang bản chép tay _Nihon Shoki_, đầu [[thời kỳ Heian]] hay **Yamato Bumi** là bộ sách cổ thứ hai về lịch sử Nhật Bản. Cuốn này tỉ mỉ và chi tiết hơn bộ cổ
Ở Nhật Bản, là tước hiệu của quan nhiếp chính trợ giúp cho một Thiên hoàng trước tuổi trưởng thành. theo lý thuyết là một cố vấn cao cấp của Thiên hoàng, nhưng bao hàm
, là một sân vận động bóng chày nằm tại Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản. Khánh thành năm 1926, sân có sức chứa 37,933 khán giả. Thuộc sở hữu của ban quản lí Đền thờ Thiên
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Niên hiệu Nhật Bản** là phần đầu, trong hai phần, của tên định danh cho năm trong lịch Nhật Bản. Phần sau là con số, bằng số năm tính từ lúc bắt đầu thời kỳ
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
là một nữ chính khách, và là con gái cả của Hōjō Tokimasa (người đầu tiên giữ chức vụ nhiếp chính của Mạc phủ Kamakura) với vợ là Hōjō no Maki. Bà là em gái
nhỏ|203x203px|Tranh khắc họa Ushi-oni, từ cuốn [[Bakemono no e, Đại học Brigham Young .]] , còn gọi là **gyūki**, là một yêu quái trong văn hóa dân gian miền Tây của Nhật Bản . Có
là bút hiệu của nhà văn người Nhật . Bà là một trong những nhà văn quan trọng đầu tiên thời Minh Trị (1868 – 1912) và là nhà văn nữ chuyên nghiệp đầu tiên
**Thời kỳ Kofun** (Kanji: 古墳時代, Rōmaji: _Kofun jidai_, phiên âm Hán-Việt: _Cổ Phần thời đại_) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ khoảng năm 250 đến năm 538. Từ kofun
nhỏ|Ishi-jo cầm một thanh naginata, bởi [[Utagawa Kuniyoshi|Kuniyoshi Utagawa.]] **Nữ chiến binh Nhật** hay **Nữ samurai Nhật** (**Onna-bugeisha** 女武芸者, _Nữ võ nghệ giả_) là 1 dạng nữ quân nhân thuộc về giới quý tộc Nhật
nhỏ|phải|Công chúa Tamatori ăn trộm viên ngọc của Ryūjin, [[Utagawa Kuniyoshi.]] , còn được gọi là **Ōwatatsumi**, là thần cai quản biển khơi trong thần thoại Nhật Bản. Hình tượng con rồng Nhật Bản biểu
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai. Năm 794,
là thủ đô trên thực tế và là một trong 47 tỉnh của Nhật Bản thuộc vùng Kanto, phía đông của đảo chính Honshu. Đây là nơi đặt Hoàng cung và các cơ quan đầu
là một ngày lễ ở Nhật Bản được tổ chức vào ngày 23 tháng 11 hàng năm, nếu ngày này rơi vào Chủ nhật, ngày lễ được chuyển sang thứ Hai. Nhật Bản coi đây
là một vị thần Nhật Bản được cho là đã lập nên đền Ise, nơi Thiên Chiếu đại thần Amaterasu Omikami ngự. Yamatohime-no-mikoto là con gái Thiên hoàng thứ 11 Suinin. ## Quan điểm lịch
là thần chiến tranh của đạo Shinto, và người bảo vệ thiêng liêng của nước Nhật và người Nhật. Tên của vị thần này có nghĩa là Thần của tám cờ hiệu, nói đến 8
thumb|Trận đấu bóng bầu dục cổ điển giữa [[Đại học Meiji và Đại học Waseda tại Giải vô địch bóng bầu dục Đại học toàn Nhật Bản lần thứ 56 - Chung kết]] của Nhật
, hay còn có tên là một nghệ sĩ Nhật Bản. Ông được công nhận rộng rãi là bậc thầy vĩ đại cuối cùng của thể loại _tranh in mộc bản_ (woodblock printing) ở ukiyo-e.
**Vương quyền Yamato** (tiếng Nhật: ヤマト王権) là tổ chức chính trị, quyền lực chính trị được hình thành trên cơ sở liên minh giữa một số thị tộc có thế lực, đã nắm ngôi vua
**Gia tộc Soga** (tiếng Nhật: 蘇我氏 - _Soga no uji_; Hán Việt: Tô Ngã thị) thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, tức vào thời kỳ Kofun và Asuka, của Nhật Bản. Gia
là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất hiện nay cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Từ thời điểm nhận giải thưởng Nhà văn
phải|Nội cung , nằm ở thành phố Ise, tỉnh Mie, Nhật Bản, là một Thần xã (đền thờ Thần đạo) thờ phụng Amaterasu-Ōmikami (Thiên Chiếu đại ngự thần). Thần cung Ise là một quần thể
là một diễn viên lồng tiếng, ca sĩ và người dẫn chương trình người Nhật Bản hợp tác với Aoni Production. Anh nổi tiếng với các vai như Matō Shinji trong loạt phim _Fate_, Osomatsu