Tân Thụy Điển (; ; ) là thuộc địa của Thụy Điển dọc theo hạ lưu sông Delaware ở Hoa Kỳ từ 1638 đến 1655, được thành lập trong Chiến tranh Ba Mươi Năm khi Thụy Điển một sức mạnh quân sự lớn. Thụy Điển mới là một phần của các nỗ lực thực dân Thụy Điển ở châu Mỹ. Các khu định cư được thành lập ở cả hai phía của Thung lũng Delaware trong khu vực Delaware, New Jersey và Pennsylvania, thường ở những nơi mà thương nhân Thụy Điển đã đến thăm từ khoảng năm 1610. Fort Christina ở Wilmington, Delkn là khu định cư đầu tiên, được đặt theo tên của vị vua Thụy Điển trị vì. Những người định cư là người Thụy Điển, người Phần Lan và một số người Hà Lan. Tân Thụy Điển đã bị Cộng hòa Hà Lan chinh phục vào năm 1655 trong Chiến tranh phương Bắc lần thứ hai và sáp nhập vào thuộc địa Hà Lan của Tân Hà Lan.
Lịch sử
Sau khi trở nên độc lập khỏi Đan Mạch vào năm 1523 với Vua Gustav I, Thụy Điển đã mở rộng bởi Baltic và đạt đến đỉnh cao dưới thời quân vương chiến binh Gustav, người đã giành được những chiến thắng rực rỡ trước Đức trong Chiến tranh Ba Mươi Năm. Vào những năm 1630, mong muốn đưa đất nước của mình ngang hàng với các cường quốc châu Âu khác, ông đã chú ý đến ý tưởng xâm chiếm bờ biển phía đông Bắc Mỹ. Dự án này đã sống sót sau cái chết của ông (xảy ra vào năm 1632) và năm 1638, Công ty Tân Thụy Điển bắt đầu thực hiện các chuyến đi đến thuộc địa.
Các trung tâm đô thị chính Tân Thụy Điển là Fort Cristina, trên các bờ sông Delaware, được thành lập ngày 29 tháng 3 năm 1638 bởi nhà thám hiểm Peter Minuit trong tên của Khristina. Sau đó, thị trấn này sẽ trở thành thành phố Wilmington. Ban đầu, nó bao gồm khoảng 600 người định cư Thụy Điển và Phần Lan, hai người thành lập một thuộc địa phát triển mạnh dưới đốc Johan Björnsson Printz, người nuôi dưỡng mối quan hệ tốt với các nước láng giềng châu Âu và người da đỏ. Các khu vực khác nơi người định cư Thụy Điển định cư là phía đông nam Pennsylvania, nơi họ thành lập thủ đô của họ gần Philadelphia và tây nam Tân Jersey. Nền kinh tế của Tân Thụy Điển dựa trên nông nghiệp và buôn bán lông thú
Sự kiểm soát của Thụy Điển đối với khu vực chỉ kéo dài 17 năm. Vào tháng 9 năm 1655, dưới sự chỉ đạo của Thống đốc Johan Rising, Tân Thụy Điển đã bị tấn công bởi thuộc địa Hà Lan láng giềng của Hà Lan và bị sáp nhập vào thuộc địa của Hà Lan. Cuối cùng, nó đã trở thành một phần của Đế quốc Anh khi nó bị một hạm đội Anh xâm chiếm năm 1664.
Ảnh hưởng từ Phần Lan
Những người định cư đến từ Vương quốc Thụy Điển. Tỷ lệ Người Phần Lan ở Tân Thụy Điển tăng trưởng đặc biệt là vào cuối thời thuộc địa. Khi tàu Mercurius đi đến thuộc địa năm 1655, 92 và 106 hành khách đã được liệt kê là người Phần Lan. Một số người là Skogfinns, người gốc Phần Lan sống ở khu vực rừng thuộc miền trung Thụy Điển. Người Skogfinn di cư chủ yếu từ Savo ở miền đông Phần Lan để Dalarna, Bergslagen và các hạt khác ở miền trung Thụy Điển vào cuối những thế kỷ XVI và vào đầu và giữa thế kỷ XVII. Động thái của họ bắt đầu dưới sự thúc đẩy của quốc vương Thụy Điển, ông Christopher Vasa, để mở rộng nền nông nghiệp của họ ở những vùng không có người ở này của đất nước họ. Những người Phần Lan này được trồng theo truyền thống với kỹ thuật đốt phù hợp hơn với nền nông nghiệp tiên phong ở những khu vực rừng rộng lớn. Ngoài ra, phương pháp này cũng được sử dụng bởi người Mỹ bản địa sống ở Delaware.
Xung đột và bán đất
Không có xung đột nghiêm trọng với Tân Hà Lan trong gần như toàn bộ thời gian thuộc địa tồn tại. Mặc dù cô tiếp tục tuyên bố vùng đất bị người Thụy Điển chiếm đóng, Hà Lan không muốn làm hỏng quan hệ với Thụy Điển trong các tranh chấp lãnh thổ.
Năm 1651, người Hà Lan đã xây dựng Fort Casimir ở cửa Sông Delaware trong khu vực gần các khu định cư của Thụy Điển. Vào tháng 5 năm 1654, thống đốc tân thuộc địa Johan Riesing đã tấn công pháo đài, và ông đã đầu hàng mà không chiến đấu. Để đáp lại điều này, vào tháng 9 năm 1655, Tổng giám đốc của New Holland, Peter Stavezant, đã gửi 317 binh sĩ trên 7 tàu chống lại Tân Thụy Điển và chiếm lại Fort Casimir. Hai tuần sau, Riesing đầu hàng và chuyển tất cả các quyền để quản lý thuộc địa cho Hà Lan. thực dân Thụy Điển đã trao quyền tự chủ rộng, tiết kiệm, và sau khi chụp của New Holland Anh trong năm 1664. Nó đã bị loại chỉ trong năm 1681, khi những vùng đất cũ của Tân Thụy Điển, cùng với một số người khác, được chuyển đến William Penn và Pennsylvania được thành lập bởi ông.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tân Thụy Điển** (; ; ) là thuộc địa của Thụy Điển dọc theo hạ lưu sông Delaware ở Hoa Kỳ từ 1638 đến 1655, được thành lập trong Chiến tranh Ba Mươi Năm khi
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
Thụy Điển sở hữu các thuộc địa ở hải ngoại từ 1638 đến 1663 và từ 1784 đến 1878. ## Danh sách ### Các thuộc địa cũ của Thụy Điển ở Châu Phi *Bờ biển
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Gustav II Adolf của Thụy Điển** (9 tháng 12jul (19 tháng 12greg) năm 1594 – 6 tháng 11jul (16 tháng 11greg) năm 1632), còn được biết với cái tên tiếng La Tinh là **Gustavus Adolphus**
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Chiến tranh Thụy Điển - Đan Mạch (1658 - 1660)** là cuộc chiến tranh thứ hai của vua Karl X Gustav của Thụy Điển chống Đan Mạch. Cuộc chiến tranh này xảy ra chỉ chưa
**Gustav III** (24 tháng 1 năm 1746 – 29 tháng 3 năm 1792), còn được gọi là _Gustavus III_, là Vua Thụy Điển từ năm 1771 cho đến khi bị ám sát vào năm 1792.
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Cuộc chiến tranh Thụy Điển-Đan Mạch (1657-1658)** là cuộc chiến tranh giữa Thụy Điển liên minh cùng công quốc Holstein với Đan Mạch và Na Uy thời vua Karl X Gustav của Thụy Điển. ##
**Tần Thủy hoàng đế lăng** () nằm ở phía bắc núi Ly Sơn (骊山) thuộc huyện Lâm Đồng, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Đây là lăng mộ được xây dựng trong
**Tước vị Công tước của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Sveriges hertigar**_;** tiếng Anh: _The title of Duke of Sweden_) là những tước vị công tước đã được tạo ra từ thế kỷ 13 trao
nhỏ|350x350px|Bản đồ Thụy Điển thời kì cực thịnh 1648-1721. Bản đồ Homann về Bắc Âu năm 1730 bởi Johann Baptist Homann (1664-1724)|thế= Trong thế kỷ 11 và 12, **Thụy Điển** dần trở thành 1 vương
**Karl IX**, còn gọi là **Carl**, **Charles** (; 4 tháng 10 năm 1550 – 30 tháng 10 năm 1611), là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1604 cho đến khi băng hà. Ông là con
**Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí** là một bệnh viện ở Uông Bí, Quảng Ninh được xây dựng và đưa vào hoạt động vào năm 1981; với sự giúp đỡ, viện trợ
**Karl X Gustav của Thụy Điển** (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1622 – 13 tháng 2 năm 1660) là quốc vương Thụy Điển từ năm 1654-1660. Ông là cháu trai của Karl IX. Vợ
**Thủy điện Sông Bạc** là thủy điện xây dựng trên sông Bạc tại vùng đất xã Tân Trịnh huyện Quang Bình tỉnh Hà Giang, Việt Nam . _Thủy điện Sông Bạc_ có công suất lắp
thumb|_Gustav Vasa diễn thuyết trước [[Dalarna|những người Dalarna ở Mora_.
Johan Gustaf Sandberg, tranh sơn dầu trên vải năm 1836.]] **Chiến tranh giải phóng Thụy Điển** (1521–23) ("Chiến tranh giải phóng"), là một cuộc nổi dậy
**Quốc hội Thụy Điển** ( , ; cũng là hoặc ) là cơ quan lập pháp của Thụy Điển, thực hiện chủ quyền nghị viện. Từ năm 1971, Quốc hội gồm một viện với 349
**Thủ tướng Chính phủ** (, nghĩa là "Bộ trưởng của Nhà nước") là người đứng đầu chính phủ ở Thụy Điển. Trước khi lập chức vụ Thủ tướng vào năm 1876, nhà vua đứng đầu.
**Ulrika Eleonora** (tiếng Anh: _Ulrika Eleonora the Younger;_ ; 23 tháng 1 năm 1688 – 24 tháng 11 năm 1741) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1718 đến khi thoái vị vào năm
[[Tuốc bin nước và máy phát điện]] Mặt cắt ngang đập thủy điện **Thủy** g của nước được tích tại các đập nước làm quay một tuốc bin nước và máy phát điện. Kiểu ít
**Nhà máy Thủy điện Hoà Bình** được xây dựng tại tỉnh Phú Thọ (từ năm 1979 đến năm 1991 là tỉnh Hà Sơn Bình, từ năm 1991 đến năm 2025 thuộc tỉnh Hoà Bình), trên
**Chiến tranh Nga-Thụy Điển (1808–1809)** là cuộc chiến tranh giữa đế quốc Nga và Thụy Điển tranh giành địa vị thống trị nước Phần Lan lúc đó thuộc Thụy Điển. Bối cảnh là hòa ước
**Kinh tế Thụy Điển** là một nền kinh tế hỗn hợp tiên tiến, hướng ngoại và có ngành khai thác tài nguyên phát triển. Các ngành công nghiệp chủ đạo là chế tạo ô tô,
**Karl XI Vasa**, còn gọi là **Carl XI**, (24 tháng 12 năm 1655 – 5 tháng 4 năm 1697theo Lịch cũ) là vua nước Thụy Điển từ năm 1660 tới khi qua đời, vào thời
**Thủy điện Đồng Nai 2** là công trình thủy điện xây dựng trên sông Đồng Nai (hay sông Đa Dâng), tại vùng đất xã Tân Thượng huyện Di Linh và Tân Thanh huyện Lâm Hà,
**Thủy điện Quảng Trị** hay **Thủy điện Rào Quán** là thủy điện xây dựng trên sông Rào Quán tại vùng đất xã Hướng Tân huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. _Thủy điện Quảng
thumb| Đập [[Ubol Ratana Dam ở Thái Lan]] nhỏ| [[Công ty Thủy điện Ialy|Đập tràn thủy điện Yaly trên sông Sêsan tại Kon Tum.]] nhỏ| Bức tường thành chính của [[Đập Pak Mun tại tỉnh
**Hôn nhân cùng giới ở Thụy Điển** được hợp pháp kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2009, sau khi áp dụng luật mới về tình dục về hôn nhân của Nghị viện Thụy Điển
**Thủy điện Sơn La** nằm trên sông Đà tại thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Nhà máy có công suất lắp máy 2.400 MW, với 6 tổ máy, khởi
**Nhà máy thủy điện Đa Nhim** là công trình thủy điện xây dựng trên sông Đa Nhim tại vùng đất thị trấn D'Ran huyện Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng và xã Lâm Sơn huyện Ninh
**Thái nữ Victoria của Thụy Điển, Nữ Công tước xứ Västergötland** (**Victoria Ingrid Alice Désirée**, sinh ngày 14 tháng 7 năm 1977) là người thừa kế ngai vàng của Vua Carl XVI Gustaf - cháu
**Thủy điện Đạ Dâng 2** là thủy điện xây dựng trên dòng sông Đa Dâng tại xã Tân Thành huyện Đức Trọng và xã Tân Hà huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam .
thumb|Hình của Vua Johan III trên tường [[:en:Stockholm Palace|cung điện Stockholm.]] **Johan III** (, ) (20 tháng 12, 1537 - 17 tháng 11, 1592) là Quốc vương của Thụy Điển từ năm 1568 cho đến
**Thủy điện Sông Chừng**, còn gọi là **thủy điện Sông Con 2**, là thủy điện xây dựng trên _sông Con_ tại vùng đất thôn Phó Chừng và Tân Bình, thị trấn Yên Bình huyện Quang
**Thủy điện Vĩnh Hà**, còn viết là **Thủy điện ICT Vĩnh Hà**, là thủy điện xây dựng trên sông Chảy tại vùng đất xã Tân Dương và xã Thượng Hà, huyện Bảo Yên tỉnh Lào
**Adolf Fredrik** hay **Adolph Frederick** (; 14 tháng 5 năm 171012 tháng 2 năm 1771) là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1751 đến khi qua đời. Ông là con trai của Christian August xứ
**Thủy điện Sông Ông** là nhóm thủy điện xây dựng trên dòng sông Ông ở vùng đất xã Quảng Sơn huyện Ninh Sơn tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. **Thủy điện Sông Ông** có công suất
**Nhà máy thủy điện Trị An** được xây dựng trên sông Đồng Nai, đoạn chảy qua huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh 65 km về phía Đông Bắc. Nhà
**Margaretha của Thụy Điển** (Margaretha Sofia Lovisa Ingeborg, 25 tháng 06 1899 - 4 tháng 1 năm 1977) là một thành viên của Vương thất Thụy Điển và qua hôn nhân với Alex của Đan
thumb|Gia huy của Vương tộc Holstein-Gottorp **Nhà Holstein-Gottorp**, là một nhánh của triều đại Oldenburg, cai trị Thụy Điển từ năm 1751 đến 1818 và Na Uy từ 1814 đến 1818, trải qua 4 đời
**Thủy điện Thượng Kon Tum** là công trình thủy điện xây dựng có hồ nước trên dòng Đăk Snghé tại vùng đất xã Đăk Kôi huyện Kon Rẫy và xã Đăk Tăng huyện Kon Plông,
**Thủy điện Sông Lô 4** là công trình thủy điện xây dựng trên sông Lô tại vùng đất thôn _Ngần Hạ_ xã Tân Thành huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang, Việt Nam . _Thủy điện
**Thủy điện Bắc Bình** là công trình thủy điện xây dựng trên dòng sông Ma Đế (suối Matin) thuộc địa phận hai xã Phan Sơn và Phan Lâm, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, Việt
**Thủy điện Sông Lô 6** là công trình thủy điện xây dựng trên sông Lô tại vùng đất các xã Vĩnh Hảo huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang và xã Yên Thuận huyện Hàm Yên
**Thủy điện Đăk Pô Ne**, còn viết là **Đăk Pône**, là thủy điện xây dựng trên dòng _Đăk Pơ Ne_ trên vùng đất các xã Măng Cành và thị trấn Măng Đen huyện Kon Plong
__NOTOC__ **Thủy điện Nậm Mạ** gồm các bậc thủy điện xây dựng trên dòng _nậm Mạ_ trên vùng đất xã Tùng Bá huyện Vị Xuyên, Hà Giang, Việt Nam . **Thủy điện Nậm Mạ 1**