✨Sự nghi ngờ của Descartes

Sự nghi ngờ của Descartes

Sự nghi ngờ của Descartes là một dạng của thuyết hoài nghi phương pháp luận thể hiện qua những ghi chép và phương pháp luận của René Descartes (31 tháng 3 năm 1596 - 11 tháng 2 năm 1650). Sự hoài nghi của Descartes còn được biết đến với tên gọi là thuyết hoài nghi của Descartes, thuyết hoài nghi phương pháp luận, sự nghi ngờ phổ quát, sự nghi ngờ có hệ thống, hoặc sự nghi ngờ hyperbol.

Sự nghi ngờ của Descartes là một quá trình hoài nghi (hoặc nghi ngờ) có hệ thống về tính xác thực trong niềm tin của một người. Điều này đã trở thành phương pháp đặc trưng trong triết học. Ngoài ra, sự nghi ngờ của Descartes còn được nhiều người coi là gốc rễ của phương pháp khoa học hiện đại. Phương pháp nghi ngờ này chủ yếu được René Descartes phổ biến trong triết học phương Tây. Ông luôn nghi ngờ về tính chân thật của mọi niềm tin để quả quyết rằng điều mà ông từng chắc chắn là đúng. Sự nghi ngờ này là nền tảng cho tuyên bố nổi tiếng của Descartes "Cogito ergo sum" (Tôi tư duy, do đó tôi tồn tại). Phiên bản đầy đủ hơn của câu nói là "dubito ergo cogito, cogito ergo sum", có nghĩa là "Tôi nghi ngờ do đó tôi tư duy, tôi tư duy do đó tôi tồn tại". Sum được dịch là "tôi tồn tại" (theo nhiều từ điển dịch tiếng Latin sang tiếng Anh) thể hiện một ý nghĩa lớn hơn và rõ hơn cho cụm từ.

Thuyết hoài nghi phương pháp luận có sự khác biệt so với thuyết hoài nghi triết học. Thuyết hoài nghi phương pháp luận là cách tiếp cận đưa ra tất cả kiến thức để xem xét kỹ lưỡng một tuyên bố với mục đích xác định nó là đúng hay sai. Còn thuyết hoài nghi triết học là cách tiếp cận đặt câu hỏi về tính khả thi của kiến thức nhất định.

Đặc điểm

Sự nghi ngờ của Descartes có tính phương pháp luận. Nó sử dụng sự nghi ngờ như một con đường dẫn đến kiến thức nhất định bằng cách xác định những gì không thể nghi ngờ. Việc giác quan có thể sai lầm khi tiếp nhận dữ liệu là một chủ đề trong sự nghi ngờ của Descartes.

Có một số cách diễn giải về mục đích của thuyết hoài nghi Descartes. Đáng chú ý trong số này là sự diễn giải theo thuyết duy bản (foundationalism) cho rằng mục đích của thuyết hoài nghi Descartes là để loại bỏ tất cả niềm tin mà ta có thể nghi ngờ, nếu sử dụng cách này thì cái cuối cùng còn sót lại là niềm tin cơ bản (hay còn được gọi là niềm tin nền tảng, niềm tin cốt lõi). Từ những niềm tin cơ bản không thể chối cãi này, Descartes sẽ tiếp tục thực nghiệm để rút ra thêm kiến thức. Đó là một mô hình nguyên mẫu và có tầm quan trọng tiêu biểu cho trường phái triết học duy lý ở châu Âu.

Phương pháp

Phương pháp nghi ngờ hyperbol của Descartes bao gồm:

  • Chỉ thừa nhận thông tin mà bạn biết là đúng sự thật
  • Chia nhỏ những sự thật này thành nhiều bộ phận nhỏ hơn
  • Giải quyết những vấn đề đơn giản trước
  • Liệt kê đầy đủ những vấn đề có thể thêm vào

Sự nghi ngờ hyperbol đồng nghĩa với việc là có khuynh hướng nghi ngờ, bởi lẽ nó là một dạng nghi ngờ tới tận cùng hoặc quá mức. Theo cảm nhận của Descartes thì kiến thức có nghĩa là biết điều gì đó không chỉ đơn thuần là tất cả những nghi ngờ có lý, mà còn là tất cả những nghi ngờ có thể xảy ra. Trong cuốn sách Meditationes de Prima Philosophia (Suy ngẫm về triết học tiên khởi), Descartes kiên quyết nghi ngờ một cách có hệ thống rằng bất kỳ niềm tin gì của ông cũng đúng, để ông có thể xây từ gốc một hệ thống niềm tin chỉ bao gồm những niềm tin mà ông biết chắc chắn là đúng. Mục tiêu cuối cùng, hoặc ít nhất là mục tiêu chủ yếu — là tìm ra một cơ sở không còn nghi ngờ gì cho các ngành khoa học. Hãy xem dòng đầu tiên của cuốn sách Meditationes de Prima Philosophia:

Sự nghi ngờ của Descartes

René Descartes đặt tất cả niềm tin, ý tưởng, tư tưởng và vật chất vào trong mối nghi ngờ. Ông cho thấy rằng căn cứ, hay lý lẽ của ông đối với bất kỳ kiến thức nào cũng có thể là sai. Kinh nghiệm cảm tính, lối kiến thức sơ đẳng thường sai lầm và đáng để nghi ngờ. Lấy ví dụ, những gì mà ta đang nhìn thấy rất có thể là ảo giác. Không có gì chứng minh điều đó không thể xảy ra. Nói tóm lại, nếu một niềm tin có thể bị bác bỏ theo bất cứ cách nào thì căn cứ của nó là không đủ. Từ đó, Descartes đưa ra 2 luận cứ, luận cứ về giấc mơ và luận cứ về evil genius.

Luận cứ về giấc mơ

Descartes biết rằng giấc mơ của con người mặc dù có thể khó tin nhưng thường trông giống như thật, vì vậy ông đưa ra giả thuyết rằng con người chỉ có thể tin rằng họ đang thức. Không có đủ căn cứ để phân biệt trải nghiệm giấc mơ với trải nghiệm thức giấc, ví dụ như một người nào đó ngồi trước máy tính, gõ phím viết bài này. Bên cạnh nhiều bằng chứng tồn tại để chỉ ra rằng hành động soạn thảo bài viết này là thực tế thì cũng có bằng chứng để chứng minh điều ngược lại. Descartes thừa nhận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mà có thể tạo ra ý tưởng giống như giấc mơ. Tuy nhiên, ở phần cuối của Meditationes, ông kết luận rằng chí ít chúng ta vẫn có thể phân biệt giấc mơ với thực tế bằng cách hồi tưởng: Con evil genius này không chỉ láu cá, lừa lọc mà còn có uy quyền nữa. Nó có thể tạo ra một thế giới với vẻ bề ngoài khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang sống ở đó.

Trong Meditationes I, Descartes tuyên bố rằng nếu một người nào đó nổi điên, dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, thì sự điên rồ này có thể khiến người đó tin rằng những gì chúng ta nghĩ là đúng có thể chỉ là tâm trí đang lời dối chúng ta. Ông cũng nói rằng có thể có 'vài con quỷ xảo quyệt, uy quyền, hiểm độc' nào đó đã lừa dối chúng ta, ngăn cản chúng ta phán đoán một cách chính xác.

Descartes lập luận rằng tất cả giác quan của ông đều nói dối, và bởi lẽ giác quan của bạn có thể dễ dàng lừa phỉnh bạn nên Descartes nảy ra ý tưởng rằng sự tồn tại của một đấng quyền năng vô hạn phải là sự thật — cũng có khả năng là chính đấng quyền năng đã cấy cho Descartes ý tưởng này khi ngài không có lý do gì để lừa dối.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sự nghi ngờ của Descartes** là một dạng của thuyết hoài nghi phương pháp luận thể hiện qua những ghi chép và phương pháp luận của René Descartes (31 tháng 3 năm 1596 - 11
nhỏ|phải|Họa phẩm về những ánh mắt nghi ngờ nhỏ|Nghi ngờ **Nghi ngờ** là một trạng thái trong đó tâm trí phải đứng giữa hai hoặc nhiều đề xuất mâu thuẫn và không thể chấp nhận
**Chủ nghĩa hoài nghi triết học** (tiếng Anh: _philosophical skepticism_) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức
**_Thế giới của Sophie_** (tiếng Na Uy: **_Sofies verden_**), với tựa đề con **Một tiểu thuyết về lịch sử triết học** (_en roman om filosofiens historie_), là một tiểu thuyết của nhà văn Jostein Gaarder.
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Elisabeth của Bohemia** (ngày 26 tháng 12 năm 1618 - 11 tháng 2 năm 1680), còn được gọi là **Elisabeth của Pfalz,** Công chúa Elisabeth của Công quốc Pfalz, hoặc Công chúa-Tu viện trưởng
**Ác quỷ dối lừa**, hay còn được gọi là _evil genius_, là một khái niệm triết học thuộc trường phái triết học Descartes (do nhà triết học **René Descartes** phát triển). Trong cuốn Suy ngẫm
**Sophie của Pfalz** (thường được gọi là **Sophie của Hannover**; 14 tháng 10 1630 – 8 tháng 6 năm 1714) là Tuyển hầu phu nhân xứ Hannover từ năm 1692 đến 1698. Bà trở thành
**Lý trí** là khả năng của ý thức để hiểu các sự việc, sử dụng logic, kiểm định và khám phá những sự kiện; thay đổi và kiểm định hành động, kinh nghiệm và niềm
**Pierre Gassendi** (1592-1655) là nhà triết học nổi tiếng người Pháp. Ông là một trong những nhà triết học lớn thuộc thời đại Phục hưng. Ngoài ra, ông còn là mục sư , nhà toán
**Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galilei** (; phiên âm tiếng Việt: **Ga-li-lê**; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1564 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1642), cũng thường được gọi ngắn gọn là **Galileo**, là
**Chủ nghĩa kinh nghiệm** hay **chủ nghĩa duy nghiệm** (tiếng Anh: **Empiricism**) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Trải nghiệm
phải|nhỏ|Tượng [[René Descartes tại Tours, dưới chân tượng là dòng chữ "Cogito, ergo sum"]] **Tôi tư duy, vậy thì tôi tồn tại** hoặc **Tôi tư duy, nên tôi tồn tại** (tiếng Latin: **Cogito, ergo sum**)
nhỏ|phải|Phiên tòa xét xử một con lừa **Xét xử động vật** (_Animal trial_) hay **phiên tòa xét xử động vật** là hoạt động xét xử bằng hình thức phiên tòa hình sự có đối tượng
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Sir Isaac Newton** (25 tháng 12 năm 1642 – 20 tháng 3 năm 1726 (lịch cũ)) là một nhà toán học, nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà thần học, và tác giả (ở thời
**_Nguồn gốc các loài_** (tiếng Anh: _On the Origin of Species_) của Charles Darwin (xuất bản năm 1859) có thể được coi là một trong các ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác
nhỏ|Hai viên nang màu đỏ và xanh, như đã đề cập trong phim _[[Ma trận (phim)|Ma trận_ (1999)]] Thuật ngữ "**red pill**" (**thuốc đỏ**) đề cập đến lựa chọn sẵn sàng chấp nhận một sự
**James Clerk Maxwell** (13 tháng 6 năm 1831 – 5 tháng 11 năm 1879) là một nhà toán học, một nhà vật lý học người Scotland. Thành tựu nổi bật nhất của ông đó là thiết
nhỏ|Đứa con tý hon bên trong một tinh trùng (hình vẽ của Nicolaas Hartsoeker, năm 1695) Trong sinh học, **lý thuyết tiền tạo thành** là một lý thuyết nay đã lỗi thời, nhưng rất phổ
**_Suy ngẫm về Triết học tiên khởi_**, với tựa đề con **_Chứng minh sự tồn tại của Chúa trời và sự khác biệt thực sự giữa tâm và thân_**, (tên Latinh: _Meditationes de prima philosophia,
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Thực tế** là tổng hợp của tất cả những gì có thật hoặc tồn tại trong một hệ thống, trái ngược với những gì chỉ là tưởng tượng. Thuật ngữ này cũng được sử dụng
thumb|Lăng kính tam giác phân tách chùm ánh sáng trắng, tách ra các bước sóng dài (đỏ) và các bước sóng ngắn hơn (màu lam). Đèn sư tử ở [[Hẻm núi Linh dương|Antelope Canyon, Hoa
**Không có, hư vô**, hay **vô** (chữ Hán: **無**, tiếng Anh: Nothing), là sự thiếu vắng của một sự vật gì đó hoặc của một sự vật cá biệt mà người ta có thể mong
Việc gọi tên **_Triết học phục hưng_** được sử dụng bởi các học giả để mô tả các tư tưởng của giai đoạn ở châu Âu khoảng giữa năm 1355 và 1650 (ngày nay dịch
nhỏ|265x265px|Bức tượng _[[Người suy tư_, Auguste Rodin|thế=]] Thuật ngữ "**Triết học phương Tây**" muốn đề cập đến các tư tưởng và những tác phẩm triết học của thế giới phương Tây. Về mặt lịch sử,
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
**Ung thư** (tiếng Anh: _cancer_), còn được gọi là **khối u ác tính**, **K**, là một nhóm các bệnh liên quan đến việc tăng sinh tế bào một cách mất kiểm soát và những tế
**Georg Ferdinand Ludwig Philipp Cantor** (;  – 6 tháng 1 năm 1918) là một nhà toán học người Đức, được biết đến nhiều nhất với tư cách cha đẻ của lý thuyết tập hợp, một
**Jean le Rond d'Alembert** (16 tháng 11 năm 1717 – 29 tháng 10 năm 1783) là một nhà toán học, nhà vật lý, nhà cơ học, triết gia người Pháp. Ông là người đồng chủ
thumb | [[Hoá học là một phân nhánh của khoa học tự nhiên]] **Khoa học** là một hệ thống kiến thức về những định luật, cấu trúc và cách vận hành của thế giới tự
**Photon** hay **quang tử** (, phōs, ánh sáng; tiếng Việt đọc là _phô tông_ hay _phô tôn_) là một loại hạt cơ bản, đồng thời là hạt lượng tử của trường điện từ và ánh
**Elsevier B.V.** (phát âm tiếng Hà Lan: [ɛlzəviːr]) là một _công ty xuất bản học thuật_, xuất bản tài liệu y học và khoa học. Elsevier là thành viên của Tập đoàn RELX (trước năm