✨Lý thuyết tiền tạo thành

Lý thuyết tiền tạo thành

nhỏ|Đứa con tý hon bên trong một tinh trùng (hình vẽ của Nicolaas Hartsoeker, năm 1695) Trong sinh học, lý thuyết tiền tạo thành là một lý thuyết nay đã lỗi thời, nhưng rất phổ biến vào khoảng thế kỉ XVII - XVIII, cho rằng sinh vật ban đầu từ trước khi ra đời đã có đầy đủ mọi bộ phận giống như sinh vật trưởng thành sinh ra nó. Nghĩa là mọi sinh vật đều phát triển từ phiên bản thu nhỏ của chính chúng ở "mầm" sinh ra chúng. Nói nôm na - theo lý thuyết này - thì mỗi sinh vật con đều giống bố hay giống mẹ nó nhưng ở kích thước tý hon.

Nội dung

  • Theo quan niệm này, thì một cây ở trong hạt giống đã là một "cây tý hon" ở dạng nguyên mẫu (prototype), khi hạt nảy mầm thì mọi bộ phận (rễ, thân, lá) đã sẵn có rồi, chỉ to dần lên, rồi thành cây như nhìn thấy được. Còn ở người, thì trẻ sơ sinh đã có hình dạng giống như bố mẹ ngay từ trong bụng mẹ, hoặc thậm chí ngay từ giao tử của bố / mẹ (xem hình). Dạng nguyên mẫu (prototype) ở người gọi là "homunculi" (người nguyên mẫu), còn ở động vật là "animalcule" (vật nguyên mẫu). Mãi đến cuối thế kỉ XVIII, quan niệm này vẫn phổ biến, như ở tác phẩm của Jan Swammerdam.
  • Thuật ngữ "lý thuyết tiền tạo thành" dịch từ nguyên gốc tiếng Anh preformationism (hay preformism) lấy gốc từ khái niệm "preformation" (phát âm Quốc tế: /ˌprē-fȯr-ˈmā-shən/) nghĩa là "tạo thành từ trước", hoặc cũng đã được dịch là "tiên hình luận".
  • Nghịch nghĩa với khái niệm này là quan niệm biểu sinh (epigenesis) hay sinh mới (neoformalism).
  • Tuy quan niệm này đã được chứng minh là sai lầm và đã bị di truyền học bác bỏ từ khoảng cuối thế kỉ XIX, nhưng thuật ngữ preformation vẫn được dùng trong phôi học ngày nay trong nghiên cứu thuộc lĩnh vực di truyền học biểu sinh, khi nói về quá trình phát sinh phôi xôma hoặc sự khác biệt của một dòng tế bào mầm. Trong bài viết này, từ phần dưới đây không cập tới khía cạnh hiện đại của di truyền học biểu sinh.

nhỏ|Hình 2: Bìa tác phẩm của [[Jan Swammerdam, 1729]]

Phát triển

Quan niệm triết học

  • Pythagoras là một trong những nhà tư tưởng sớm nhất về vấn đề này, được ghi nhận với các ý tưởng về nguồn gốc của hình thức sinh sản. Ông cho rằng tinh trùng của người cha đóng góp những đặc điểm thiết yếu của con cái, còn (trứng) của bà mẹ chỉ đóng góp chất nền.
  • Aristotle đã chấp nhận và phát triển ý tưởng này, và các tác phẩm của ông về lý thuyết biểu sinh gần giống như quan niệm của di truyền học ngày nay. Sau đó, một số bác sĩ châu Âu như Galen, Realdo Colombo và Girolamo Fabrici phát triển lý thuyết của Aristotle, và khá phổ biến vào thế kỷ XVII.
  • Năm 1651, William Harvey đã xuất bản cuốn "Về thế hệ động vật" (On the Generation of Animals), một công trình nghiên cứu về phôi học mâu thuẫn với nhiều ý tưởng cơ bản của Pythagoras, bởi vì Harvey khẳng định tất cả các loài động vật đều "xuất phát" từ trứng của động vật cái. Tuy nhiên, những ý tưởng của Harvey về quá trình phát triển cá thể về cơ bản là biểu sinh, tức là phản đối preformism (tiền tạo thành). Tuy là nhà khoa học, nhưng Harvey lại cho rằng có một "chất linh hồn" phát huy tác dụng của nó đối với cơ thể phụ nữ, còn sự thụ tinh xảy ra qua một sự chuyển giao "bí ẩn" theo kiểu tiếp xúc hoặc truyền nhiễm. (Xem thêm ở trang Biểu sinh).

Phát triển và suy tàn

  • Sau khi phát hiện ra tinh trùng vào năm 1677 nhờ kính hiển vi của Antonie van Leeuwenhoek, lý thuyết biểu sinh đã tỏ ra khó bảo vệ hơn: Làm thế nào mà một sinh vật phức tạp như con người lại có thể phát triển từ vật đơn giản như thế được ? Tuy nhiên, Leeuwenhoek nghiên cứu thêm về nhiều loại tinh trùng khác nhau của khoảng 30 loài. Ông cho rằng trong tinh trùng có "tất cả các loại mạch lớn và nhỏ, rất đa dạng và nhiều đến nỗi tôi không nghi ngờ rằng chúng là dây thần kinh, động mạch và tĩnh mạch...". Ông còn thấy tinh trùng chuyển động, nên cho rằng chúng phải có linh hồn (soul).
  • Sau đó, Joseph de Aromatari, tiếp theo là Marcello Malpighi và Jan Swammerdam đã giải thích những phát hiện của họ nhằm củng cố lý thuyết này.
  • Caspar Friedrich Wolff, một nhà biểu sinh học ở thế kỷ XVIII đã nghiên cứu nhiều và phát triển lý thuyết của mình. Những người theo chủ nghĩa tự nhiên vào cuối thế kỷ 18 và thế kỷ 19 chấp nhận lý thuyết của Wolff, nhưng chủ yếu là vì họ đã phản đối kiểu phát triển "phóng to" từ nguyên mẫu có tính cơ học, hơn là có bằng chứng khẳng định biểu sinh.
  • Mãi đến cuối thế kỷ 19, lý thuyết tiền tạo thành mới bị loại bỏ gần như hoàn toàn do sự phát triển mạnh mẽ của tế bào học. Lúc đó, các nhà sinh học nhận ra rằng sinh vật sống không phải như những cỗ máy được chế tạo sẵn. Wilhelm Roux và Hans Driesch đã tiến hành các thí nghiệm về sự phát triển phôi của nhím biển và đưa ra những bằng chứng được coi là quyết định có lợi cho lý thuyết biểu sinh.
  • Khi lý thuyết nguyên tử của John Dalton ra đời và phát triển, thay thế triết học của Descartes, thì lý thuyết tiền tạo thành bị giáng một đòn chí mạng, bởi vì không thể đủ không gian để chứa các "phân tử động vật" xếp chồng lên nhau vô hạn được.

Nguồn trích dẫn

Thể loại:Sinh học Thể loại:Di truyền học Thể loại:Sinh học phát triển Thể loại:Lịch sử sinh học

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Đứa con tý hon bên trong một tinh trùng (hình vẽ của Nicolaas Hartsoeker, năm 1695) Trong sinh học, **lý thuyết tiền tạo thành** là một lý thuyết nay đã lỗi thời, nhưng rất phổ
[[Tập tin:Modern Synthesis 2.png|nhỏ|Thuyết tiến hóa tổng hợp (**M**) dựa vào thành tựu chủ yếu của: 1 = Di truyền học quần thể (**population genetics**), 2 = Di truyền Mendel (**Mendelian genetics**), 3 = Chọn
**Các cuộc chống đối thuyết tiến hóa** bắt đầu kể từ khi các ý tưởng về sự tiến hóa gây được sự chú ý vào thế kỷ 19. Ban đầu, vào năm 1859, khi Charles
**Lý thuyết trò chơi**, hoặc gọi **đối sách luận**, **lí luận ván cờ**, là một phân nhánh mới của toán học hiện đại, cũng là một môn học trọng yếu của vận trù học, tác
Trong vật lý lý thuyết, **Lý thuyết trường lượng tử** (tiếng Anh: **quantum field theory**, thường viết tắt QFT) là một khuôn khổ lý thuyết để xây dựng các mô hình cơ học lượng tử
**Lý thuyết dây** là một thuyết hấp dẫn lượng tử, được xây dựng với mục đích thống nhất tất cả các hạt cơ bản cùng các lực cơ bản của tự nhiên, ngay cả lực
**Lý thuyết số** là một ngành của toán học lý thuyết nghiên cứu về tính chất của số nói chung và số nguyên nói riêng, cũng như những lớp rộng hơn các bài toán mà
**Lý thuyết tập hợp ngây thơ** là bất kỳ lý thuyết nào trong số các lý thuyết tập hợp được sử dụng trong cuộc thảo luận về nền tảng của toán học. Không giống như
**Lý thuyết tiền công hiệu quả** là những lý thuyết của kinh tế học vĩ mô và kinh tế học lao động lý giải tại sao các doanh nghiệp trả tiền công cho công nhân
[[Tập_tin:Extended_Evolutionary_Synthesis.png|nhỏ|Một trong những nội dung bổ sung của EES so với ES (theo Gerd B. Müller). Học thuyết này thường được gọi ngắn gọn là _tiến hóa tổng hợp_ (từ tiếng Anh: _evolutionary synthesis_, viết
**Lý thuyết về ràng buộc** (TOC) là một mô hình quản lý mà quan sát bất kỳ hệ thống quản lý nào bị giới hạn trong việc đạt được nhiều mục tiêu hơn bởi một
thumb|Lý thuyết về dự định hành vi **Lý thuyết hành vi có kế hoạch hay lý thuyết hành vi hoạch định** (Tiếng Anh: **The Theory of Planning Behaviour**) là một lý thuyết thể hiện mối
thumb|right|Một [[sơ đồ Venn mô phỏng phép giao của hai tập hợp.]] **Lý thuyết tập hợp** (tiếng Anh: _set theory_) là ngành toán học nghiên cứu về tập hợp. Mặc dù bất kỳ đối tượng
Khái niệm của vòng phản hồi dùng để điều khiển hành vi động lực của hệ thống: đây là phản hồi âm, vì giá trị cảm biến (sensor) bị trừ đi từ giá trị mong
Trong hình học đại số và vật lý lý thuyết, **đối xứng gương** là mối quan hệ giữa các vật thể hình học được gọi là những đa tạp Calabi-Yau. Các đa tạp này có
nhỏ|Lý thuyết biểu diễn nghiên cứu cách các cấu trúc đại số "biến đổi" các đối tượng toán học. Ví dụ đơn giản nhất là cách [[Nhóm nhị diện|nhóm đối xứng của các đa giác
thumb|**[[Phép tính lambda** là một hệ thống hình thức để định nghĩa hàm, ứng dụng hàm và đệ quy được Alonzo Church đề xuất vào những năm 193x.]] **Lý thuyết ngôn ngữ lập trình** (thường
**Lý thuyết xã hội** là các khung phân tích, hay các mô hình, được sử dụng để nghiên cứu và giải thích các hiện tượng xã hội. Vốn là một công cụ được sử dụng
**Các lý thuyết về nguyên nhân của sự nghèo đói** là nền tảng cho các chiến lược xóa đói giảm nghèo. Trong khi ở các quốc gia phát triển, sự nghèo đói thường bị coi
Trong toán học, logic và khoa học máy tính, một **lý thuyết hình thái** hoặc một **hệ hình thái** là một hệ thống hình thức trong đó mọi **đối tượng** đều có một **hình thái**
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
nhỏ|Bìa cuốn sách _Homotopy Type Theory: nền tảng thống nhất của toán học_. Trong logic toán và khoa học máy tính, **lý thuyết hình thái đồng luân** (tiếng Anh: **homotopy type theory**, **HoTT** ) đề
**Lý thuyết thông tin thuật toán** là một lĩnh vực của lý thuyết thông tin và khoa học máy tính liên quan đến mối quan hệ giữa tính toán và thông tin. Theo Gregory Chaitin,
**Lý thuyết dòng chảy hai bước trong truyền thông** chỉ ra rằng hầu hết mọi người hình thành quan điểm của họ dưới sự ảnh hưởng của những người dẫn dắt ý kiến (opinion leaders).
**Lý thuyết gán nhãn hiệu** (tiếng Anh: Labeling Theory) là một lý thuyết xã hội học nghiên cứu hành vi ứng xử của con người theo phương pháp phân tích tương tác biểu tượng qua
**Lý thuyết chiếc thìa và tầng lớp** () là một khái niệm xã hội cho rằng mỗi cá nhân trong xã hội có thể được phân loại thành các tầng lớp kinh tế–xã hội khác
[[Hàm Weierstrass, một loại hình phân dạng mô tả một chuyển động hỗn loạn]] phải||Quỹ đạo của hệ Lorenz cho các giá trị _r_ = 28, σ = 10, _b_ = 8/3 **Thuyết hỗn loạn**
**Lý thuyết âm nhạc** (tức **nhạc lý**) là ngành nghiên cứu các cách thực hành âm nhạc thực tế. Nói chung, nó bắt nguồn từ sự quan sát làm cách nào mà nhạc công và
**Lý thuyết phân tâm học** là một lý thuyết về tổ chức nhân cách và động lực phát triển nhân cách, là cơ sở của phân tâm học, một phương pháp lâm sàng để điều
Trong Mác-xít, **lý thuyết giai cấp của Marx** khẳng định rằng vị trí của một cá nhân trong một hệ thống phân chia giai cấp được xác định bởi vai trò của cá nhân đó
**Lý thuyết quyền biến** (tiếng Anh: _Contingency theory_) là một lý thuyết về tổ chức tuyên bố rằng không có cách tốt nhất để tổ chức, lãnh đạo một công ty hoặc đưa ra quyết
phải|nhỏ|200x200px| Giản đồ biểu diễn một phạm trù với các đối tượng _X_, _Y_, _Z_ và các cấu xạ _f_, _g_, _g_ ∘ _f_. (Ba cấu xạ đồng nhất 1 _X_, 1 _Y_ và 1
**Lý thuyết Chủng tộc Phê phán** (, **CRT**) là một tổ chức học thuật pháp lý và một phong trào học thuật của các học giả và nhà hoạt động dân quyền ở Hoa Kỳ
Trong lý thuyết trò chơi, **trận chiến giới tính (Battle of the sexes)** là một trò chơi phối hợp giữa hai người chơi. Hãy tưởng tượng, một cặp đôi hẹn hò gặp nhau buổi tối,
**Lý thuyết phát triển xã hội** cố gắng giải thích những thay đổi về chất trong cấu trúc và khuôn khổ của xã hội, giúp xã hội nhận ra phương hướng và mục tiêu tốt
**Lý thuyết xác suất** là ngành toán học chuyên nghiên cứu xác suất. Các nhà toán học coi xác suất là các số trong khoảng [0,1], được gán tương ứng với một _biến cố_ mà
} Trong sinh học, **tiến hóa** là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Những đặc tính này là sự biểu hiện
**Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede**, đề ra bởi nhà nhân chủng học người Hà Lan- Geert Hofstede, được coi là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia. Bằng việc phân
Trong cơ học lượng tử, **lý thuyết nhiễu loạn** là một tập hợp các sơ đồ gần đúng liên quan trực tiếp đến nhiễu loạn toán học để mô tả một hệ lượng tử phức
**Nguyên lý sóng Elliott** là một hình thức của phân tích kỹ thuật mà một số nhà đầu tư sử dụng để phân tích các chu kỳ thị trường tài chính và dự báo các
nhỏ|Biểu tượng của tiến hóa **Thuyết tiến hoá trung tính** là lý thuyết sinh học cho rằng ở cấp độ phân tử, thì quá trình tiến hoá diễn ra bằng cách củng cố ngẫu nhiên
nhỏ|Hình 1: Sơ đồ của Weismann về giả thuyết dòng mầm. **Lý thuyết dòng mầm** do nhà sinh học Đức August Weismann (tiếng Anh: /ˈwaɪsmən/, tiếng Việt: **vây-xơ-man**) đề xuất từ năm 1883, công bố
thumb|upright=1.35|[[chuỗi lớn sinh vật Trung cổ như một cầu thang, ngụ ý khả năng tiến bộ: _Thang thăng trầm tư duy_ của Ramon Lull, 1305]] **Các lựa chọn thay thế cho tiến hóa do chọn
**Lý thuyết về vòng đời sản phẩm** là một lý thuyết kinh tế được phát triển bởi Raymond Vernon nhằm đáp lại sự thất bại của mô hình Heckscher-Ohlin trong việc giải thích bản mẫu
Mô phỏng dựa theo thuyết tương đối rộng về chuyển động quỹ đạo xoáy tròn và hợp nhất của hai hố đen tương tự với sự kiện [[GW150914. Minh họa hai mặt cầu đen tương
nhỏ|Các mảng kiến tạo trên thế giới được vẽ vào nửa sau của thế kỷ 19. **Kiến tạo mảng** (tiếng Anh: **plate tectonics**; tiếng Hy Lạp: τέκτων _tektōn_, nghĩa là "người xây dựng", "thợ nề")
thumb|Hình minh họa tiên đề chọn, với mỗi và lần lượt biểu diễn một bình và một viên bi thumb| là một [[họ chỉ số vô hạn các tập hợp với tập chỉ số là
**Thuyết sử dụng và hài lòng** (TSDVHL) là lý thuyết giả định rằng con người chủ động tiếp cận phương tiện truyền thông để thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của họ. Thuyết sử
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Lời** **tiên tri tự ứng nghiệm**, **Lời tiên tri tự hiện thực**, **Hiện thực hóa lời tiên đoán** (tiếng Anh: _Self-fulfilling prophecy_) là một sự dự đoán, bằng một cách trực tiếp hay gián tiếp,