✨Strela-2

Strela-2

9K32 "Strela-2" (tiếng Nga 9К32 "Стрела-2", ký hiệu của NATO SA-7 "Grail") là một tên lửa phòng không vác vai, tương tự như loại FIM-43 Redeye của Hoa Kỳ. Loại tên lửa này có điều khiển, sử dụng hệ dẫn hướng hồng ngoại bị động.

Strela 2 là thế hệ đầu của loại tên lửa vác vai Liên Xô, nó được đưa vào trang bị vào khoảng năm 1968. Mặc dù Strela 2 bị hạn chế về tầm bắn, tốc độ và độ cao, nhưng nó rất gọn nhẹ (có thể vác trên vai bộ binh), rất thích hợp cho tác chiến du kích. Nó rất hữu hiệu khi đối phó với các mục tiêu bay thấp như máy bay ném bom bổ nhào, máy bay vận tải hoặc trực thăng, hay chí ít có thể buộc các phi công của đối phương phải bay cao hơn tầm hoạt động hiệu quả của nó, điều này làm tăng khả năng của việc phát hiện bằng ra đa và dễ bị tấn công bởi các hệ thống phòng không khác.

Cho tới thời điểm 2020, sau 50 năm được chế tạo, Strela-2 vẫn tiếp tục được sử dụng bởi một số quân đội, lực lượng quân sự. Strela-2 hiện đang giữ thành tích bắn hạ nhiều máy bay nhất trong số các tổ hợp tên lửa phòng không vác vai trên thế giới, hơn cả loại FIM-92 Stinger của Mỹ.

Lịch sử phát triển

Sự kết thúc của Chiến tranh Thế giới thứ hai đã dẫn đến một sự thay đổi lớn trong hoc thuyết quân sự của Liên Xô. Sự xuất hiện của các máy bay ném bom tầm xa, độ cao lớn, mang theo vũ khí hạt nhân của Mỹ có khả năng xâm nhập không phận Liên Xô ở độ cao và tốc độ mà các khẩu pháo phòng không và hầu hết các máy bay tiêm kích không thể đạt tới, dường như đã khiến mọi vũ khí thông thường trở nên lỗi thời ngay lập tức. Hàng loạt hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) tầm xa, độ cao lớn, như S-25 Berkut và S-75 Dvina, đã được phát triển nhanh chóng và triển khai để khắc phục điểm yếu lớn này. Tuy nhiên, do sự xuất hiện của các loại vũ khí thông thường dường như đã lỗi thời, việc phát triển các hệ thống phòng không chiến trường di động tương đối ít được chú trọng.

Hướng đi này đã sớm thay đổi khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Là một cuộc xung đột truyền thống, cuộc chiến đã chứng minh rằng vũ khí hạt nhân không phải là yếu tố quyết định tất cả trong chiến tranh. Để đối phó với lực lượng không quân Mỹ hiện đại và mạnh mẽ, mang theo các loại vũ khí phi hạt nhân, Liên Xô đã đầu tư mạnh mẽ vào một hệ thống phòng không đa tầng, bao gồm nhiều hệ thống SAM di động mới, để bao phủ mọi độ cao và bảo vệ lực lượng mặt đất. Học thuyết mới này đưa ra năm yêu cầu:

Hệ thống phòng không khu vực tầm trung đến cao dành cho cấp phương diện quân: 9K8 Krug (mã NATO định danh SA-4 "Ganef") Hệ thống phòng không khu vực tầm thấp đến trung dành cho cấp quân đoàn: 3K9 Kub (mã NATO định danh SA-6 "Gainful") Hệ thống phòng không tầm thấp, ngắn dành cho cấp sư đoàn: 9K33 Osa (mã NATO định danh SA-8 "Gecko") Hệ thống phòng khổng dẫn đường bằng radar cấp trung đoàn: ZSU-23-4 "Shilka" và hệ thống tên lửa tầm ngắn 9K31 Strela-1 (NATO định danh SA-9 "Gaskin") *Hệ thống tên lửa vác vai cấp tiểu đoàn: 9K32 Strela-2 (NATO định danh SA-7 "Grail") Ban đầu, cả Strela-1 và Strela-2 đều được thiết kế để trở thành các hệ thống vác vai. Tuy nhiên, do Strela-2 được chứng minh là một thiết bị gọn nhẹ hơn, vai trò của Strela-1 đã được thay đổi. SA-9 với tầm bắn và hiệu năng tăng cường, hỗ trợ tốt hơn cho ZSU-23-4 trong vai trò phòng không trung đoàn. thumb|right|Các thành phần của SA-7a. Có thể dễ dàng nhận biết bởi báng cầm hình vuông.

Khi việc phát triển bắt đầu tại OKB Turopov (sau này đổi tên thành Kolomna), các thông tin chi tiết về thiết kế của FIM-43 Redeye của Mỹ đã được tiết lộ. Mặc dù không phải là một của kỹ thuật đảo ngược, thiết kế của Strela trong nhiều khía cạnh đã vay mượn đáng kể từ Redeye, hệ thống đã được phát triển trước đó vài năm.

Do nền tảng kỹ thuật của Liên Xô tương đối thô sơ, việc phát triển kéo dài và nảy sinh nhiều vấn đề, đặc biệt trong việc thiết kế đầu dò và tên lửa đủ nhỏ gọn. Cuối cùng, các nhà thiết kế đã chấp nhận sử dụng một đầu dò đơn giản hơn so với Redeye, cho phép phiên bản đầu tiên, 9K32 "Strela-2" (Bộ Quốc phòng Mỹ định danh SA-7A, tên lửa 9M32) được đưa vào sử dụng năm 1968, chậm hơn 5 năm so với kế hoạch. Vào thời điểm đó, một chuyên gia mô tả nó như "sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của Nga".

Cải tiến

Biến thể đầu tiên của Strela-2 tồn tại nhiều hạn chế, bao gồm khả năng chỉ tấn công được các mục tiêu di chuyển ở tốc độ thấp, độ cao thấp, và chỉ khi tiếp cận từ phía sau. Hệ thống này cũng gặp khó khăn trong việc dẫn đường, đặc biệt là khi bị ảnh hưởng bởi các nguồn bức xạ hồng ngoại tự nhiên hoặc nhân tạo trong môi trường. Ngay cả khi tên lửa bắn trúng mục tiêu, hiệu quả tiêu diệt thường không đạt yêu cầu, đặc biệt khi đối đầu với máy bay phản lực, do tên lửa thường chỉ bắn trúng phần miệng phun phía sau động cơ, nơi đầu đạn nhỏ không gây đủ thiệt hại cho động cơ.

Nhằm khắc phục các nhược điểm trên, vào năm 1968, hai phiên bản cải tiến đã được phát triển: 9K32M "Strela-2M" (SA-7b) để thay thế bản gốc và một dự án dài hạn hơn mang tên Strela-3. Đầu đạn này vẫn được sử dụng trên hầu hết các biến thể của 9K38 Igla. Để tăng cường khả năng tiêu diệt, các hệ thống sau này đã thêm các chất nổ mạnh hơn, cải tiến ngòi nổ, và các thiết kế nổ phụ để tận dụng nhiên liệu còn sót lại, nhưng thiết kế ban đầu của Strela-2 vẫn được giữ nguyên. sử dụng bệ phóng bốn ống và được đặt tên mã NATO là SA-N-5 "Grail".

thumb|upright|left|Một hệ thống Strela đang được nhắm mục tiêu, với thấu kính của đầu dò rõ ràng

Khi đối mặt với các mục tiêu di chuyển chậm hoặc bay xa dần, xạ thủ sử dụng kính ngắm trên ống phóng để theo dõi mục tiêu, đồng thời bóp nhẹ cò súng. Hành động này mở khóa đầu dò, cho phép nó theo dõi tín hiệu mục tiêu. Nếu tín hiệu hồng ngoại từ mục tiêu đủ mạnh và có thể được theo dõi, đèn báo hiệu sáng lên kèm theo âm thanh cảnh báo. Sau đó, xạ thủ bóp cò hoàn toàn và ngay lập tức thực hiện các điều chỉnh về góc dẫn hướng và độ cao. Phương pháp này gọi là chế độ bắn thủ công. Trong khi đó, chế độ tự động – được sử dụng cho mục tiêu di chuyển nhanh – cho phép xạ thủ bóp cò hoàn toàn trong một lần và thực hiện các điều chỉnh ngay lập tức. Hệ thống sẽ tự động phóng tên lửa nếu phát hiện tín hiệu đủ mạnh.

Theo nhà sản xuất, thời gian phản ứng từ khi mang tên lửa trên lưng đến khi phóng là 13 giây, nhưng điều này đòi hỏi xạ thủ được đào tạo kỹ lưỡng. Khi đã đặt hệ thống lên vai, tháo các nắp bảo vệ và mở kính ngắm, thời gian phản ứng từ khi nhận lệnh phóng đến khi khai hỏa giảm xuống còn 6–10 giây, tùy thuộc vào kỹ năng của xạ thủ và độ khó của mục tiêu.

Sau khi kích hoạt nguồn điện cho các thiết bị của tên lửa, xạ thủ đợi nguồn điện ổn định và các con quay hồi chuyển hoạt động, rồi nhắm mục tiêu qua kính ngắm của ống phóng. Khi bóp cò trên báng cầm, hệ thống sẽ kích hoạt đầu dò và tên lửa cố gắng khóa mục tiêu. Nếu tín hiệu đủ mạnh và mục tiêu nằm trong thông số phù hợp, đèn báo hiệu sẽ sáng lên, kèm theo âm thanh liên tục. Xạ thủ có 0,8 giây để điều chỉnh góc dẫn hướng trước khi kích hoạt nguồn điện trong tên lửa và động cơ phóng bắt đầu hoạt động.

Nếu mục tiêu nằm ngoài thông số cho phép, tín hiệu từ đèn và âm thanh sẽ yêu cầu xạ thủ điều chỉnh lại hướng nhắm.

Khi phóng, động cơ đẩy tiêu hao hoàn toàn trước khi tên lửa rời khỏi ống phóng với vận tốc , đồng thời quay với tốc độ khoảng 20 vòng mỗi giây. Sau khi rời khỏi ống, các cánh lái phía trước và cánh đuôi phía sau mở ra. Một cơ chế tự hủy được kích hoạt, đảm bảo tên lửa tự hủy sau 14–17 giây nếu không trúng mục tiêu để tránh rơi xuống đất.

thumb|left|Hệ thống Strela ngay sau khi phóng, các cánh đã mở ra và chuẩn bị kích hoạt động cơ duy trì

Khi cách xạ thủ khoảng 5,5 mét, tức 0,3 giây sau khi rời khỏi ống phóng, động cơ duy trì được kích hoạt, đưa tên lửa lên vận tốc và duy trì tốc độ này. Khi đạt vận tốc tối đa, khoảng cách 120 mét từ xạ thủ, cơ chế an toàn cuối cùng được vô hiệu hóa, và tên lửa hoàn toàn sẵn sàng hoạt động. Tổng thời gian cháy của động cơ phóng là 0,5 giây, và động cơ duy trì cháy trong 2,0 giây..

Trong giai đoạn từ 1978 đến 1986, SA-7 của Syria và của du kích Palestine đã bắn rơi 04 máy bay (01 chiếc Kfir, 1 chiếc F-4, 2 chiếc A-4), 03 chiếc máy bay lên thẳng (2 chiếc AH-1 Cobra, 1 chiếc UH-1) của Không quân Israel và 01 chiếc máy bay cường kích hải quân A-7 (số hiệu 157486) của Không quân hải quân Mỹ.

Strela-2 của Lybia có thể đã hạ 01 chiếc MiG-21 của Ai Cập vào tháng 7/1977, và 01 chiếc Specat Jaguar của Pháp tháng 5/1978.

Trong chiến dịch "Bão táp sa mạc", Strela-2 của Iraq bắn rơi 1 chiếc Panavia Tornado của Anh, 01 chiếc AC-130 của Không quân Mỹ, 01 chiếc AV-8 Harrier của Không quân hải quân Mỹ.

Tháng 5-6/1997, quân người Kurd đã dùng Strela-2 bắn rơi 2 máy bay lên thẳng loại AH-1W và AS-532UL của Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong chiến tranh Iraq lần thứ hai, trong tháng 1/2006, các chiến binh Iraq đã dùng Strela-2 bắn hạ 1 chiếc máy bay trực thăng chiến đấu AH-64 Apache của Không quân lục quân Mỹ.

Cuối năm 2015, một chiếc F-16 của Không quân Mỹ đã bị du kích Taliban bắn trúng bởi SA-7, chiếc F-16 bị hư hại nặng, phải vứt bỏ vũ khí, thùng xăng và hạ cánh khẩn cấp tại sân bay gần đó.

Tại Việt Nam

Tên lửa vác vai 9K32 Strela-2 (có nghĩa là mũi tên) được trang bị cho Quân đội Nhân dân Việt Nam từ năm 1972 và được gọi với cái tên A-72. Tên lửa Strela 2 với đặc điểm gọn nhẹ, dễ cơ động, khả năng sát thương cao đã trở thành hiểm họa của máy bay tầm thấp, đặc biệt là máy bay không người lái, máy bay vận tải và trực thăng. Theo thống kê của Nga, đã có 589 quả SA-7 được phóng tại Việt Nam trong giai đoạn 1972-1975, trong đó 204 quả đã bắn trúng đích (tỷ lệ trúng đích 29,5%). Một nguồn khác thống kê trong 3 năm, Tiểu đoàn phòng không 172 trang bị A-72 (thuộc Trung đoàn 64, sư đoàn 361 Quân chủng Phòng Không - Không quân) đã đánh 484 trận, phóng 408 tên lửa, diệt 157 máy bay (134 chiếc rơi tại chỗ), bao gồm 34 chiếc bị hạ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đạt hiệu suất tiêu diệt 37,5%, cao hơn so với tính toán thiết kế là 30%. Trong tiểu đoàn 172 có hàng chục xạ thủ hạ được từ 4 máy bay trở lên, xạ thủ cao nhất hạ tới 16 máy bay. 17 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 172 đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Từ đầu năm 1972 đến tháng 1/1973, các chiến sĩ Việt Nam đã dùng Strela-2 bắn hạ 29 máy bay Mỹ (01 chiếc F-4, 7 chiếc O-1, 03 chiếc O-2, 04 chiếc OV-10, 09 chiếc A-1, 04 chiếc A-37) và 14 máy bay lên thẳng (01 chiếc CH-47, 04 chiếc AH-1, 09 chiếc UH-1) Đây mới chỉ là số liệu mà Mỹ công nhận, con số thực tế chắc chắn là cao hơn (vì Mỹ chưa tính số máy bay của không quân Sài Gòn bị bắn rơi, cũng chưa tính số máy bay bị trúng tên lửa hư hại nặng nhưng quay về được sân bay).

Trong một bài viết của của hai tác giả Zhirohova Michael và Alexander Kotlobovskiy có thống kê các thành tích của A-72 chống lại máy bay trực thăng chiến đấu của Mỹ tại khu vực An Lộc: 25 lần phóng tên lửa đã bắn hạ 18 máy bay trực thăng, đặc biệt là ngày 12/5/1972 tại khu vực An Lộc, trong vòng một tiếng rưỡi 5 máy bay trực thăng AH-1 Cobra trúng tên lửa và bị bắn rơi. Ngày 15/6/1972, A-72 làm nên phát bắn gây thiệt hại nặng nhất về người cho không quân Mỹ: 1 chiếc AC-130A bị A-72 bắn trúng, chiếc máy bay nặng gần 80 tấn bị rơi và giết chết toàn bộ 12 thành viên phi hành đoàn.

Sự xuất hiện của A-72 đã gây một áp lực tâm lý nặng nề cho phi công Mỹ, nhất là phi công trực thăng. Tại miền Nam trước năm 1972, quân Giải phóng chỉ có thể bắn máy bay Mỹ bằng súng máy, phi công Mỹ chỉ cần bay cao hơn 800 mét là khá an toàn. Chỉ những lúc trực thăng Mỹ bay thấp thì mới dễ bị bắn, nhưng trực thăng bị trúng một vài phát đạn súng máy thì cũng chưa chắc đã rơi, và nếu có rơi thì phi công Mỹ vẫn có tỷ lệ sống sót khá cao. Nhưng tên lửa A-72 thì có thể bắn trúng mục tiêu ở độ cao tới 2.300 mét, vượt quá trần bay của đa số trực thăng thời đó, và chỉ cần 1 quả đánh trúng trực thăng thì sức nổ của nó sẽ ngay lập tức giết chết phi công hoặc khiến trực thăng bốc cháy dữ dội, khiến tỷ lệ sống sót của phi công là rất thấp. Theo 1 thống kê đối với 9 trực thăng Mỹ trúng tên lửa vào năm 1972, chỉ có 2 tổ phi công (lái loại AH-1 Cobra) là may mắn thoát chết.

Ngày 28/1/1973, Hiệp định Paris có hiệu lực. Tháng 7/1973, có 22 lần quân đội Việt Nam sử dụng tên lửa A-72, bắn rơi 7 máy bay của không quân Sài Gòn (theo William Le Gros, "Vietnam: Cease Fire To Capitulation"): 1 chiếc A-37 và 1 chiếc UH-1 ở Quảng Trị, 2 chiếc A-1 và 1 chiếc F-5 ở Bình Long, 1 chiếc A-1 ở Tiên Phước, 1 chiếc UH-1 và 1 chiếc CH–47 ở Biên Hòa. Theo thống kê của trang globalsecurity.org, tính tổng số từ tháng 1/1973 đến mùa hè 1974, số máy bay của quân đội Sài Gòn bị A-72 bắn rơi là 17 chiếc: 5 máy bay A-1; 5 chiếc A-37; 1 chiếc AC-119; 1 chiếc F-5; 3 chiếc UH-1; 2 chiếc CH-47. Báo cáo chính thức của tùy viên quân sự Đại sứ quán Mỹ cung cấp là quân đội Sài Gòn tổn thất 23 máy bay chiến đấu bởi A-72. Từ 28/1/1973 đến cuối 31/12/1974, tổng số máy bay bị A-72 bắn rơi lên đến 28 máy bay, trong đó có ít nhất một chiếc AC-119. Đó là còn chưa tính số máy bay bị trúng tên lửa hư hại nặng nhưng quay về được sân bay.

Các xạ thủ A-72 tiêu biểu: Ngày 11 tháng 5 năm 1972, Chiến sĩ Nghiêm Xuân Đán, người xã Tri Chỉ (Phú Xuyên, Hà Nội), là người Việt Nam đầu tiên bắn rơi máy bay bằng tên lửa A-72 trong trận đánh tại Núi Gió, gần Thị xã Bình Long. Trong ngày hôm đó, với 2 quả tên lửa ông đã bắn rơi 2 máy bay OV-10. Chiến sĩ Nguyễn Ngọc Chiến, khi mới vào chiến trường, cả 6 lần phóng tên lửa đầu tiên đều không trúng. Ông đã cùng đồng đội rút kinh nghiệm, tìm hiểu quy luật của từng loại máy bay để tìm ra chiến thuật bắn hợp lý. Từ năm 1974-1975, chỉ với 5 quả tên lửa A-72, ông đã diệt 6 máy bay, đủ loại C-47, C-123, CH-54, UH-1A... Tại Mộc Hóa, Kiến Tường, bằng một quả A-72, ông Chiến đã diệt 2 máy bay (chiếc CH-46 bị trúng đạn nổ văng thành nhiều mảnh khiến chiếc UH-1A bay bên cạnh cũng bị rơi theo). Ngoài ra, còn có liệt sĩ Hoàng Anh Quyết cũng lập thành tích 1 tên lửa hạ 2 máy bay. Xạ thủ Nguyễn Văn Thoa (sinh năm 1952, ngụ tại thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) đã sử dụng SA-7 tiêu diệt 13 máy bay địch. Bằng 18 quả tên lửa trong 6 trận đánh, ông hạ được 13 chiếc máy bay. Ngoài máy bay trinh sát L-19, trực thăng chiến đấu HU-1A còn có cả máy bay ném bom CH-54, máy bay vận tải hạng nặng C-130. Ông Thoa cũng là người bắn hạ chiếc máy bay địch cuối cùng trong chiến tranh: bắn hạ chiếc máy bay C-130 tại xã Tân Thới Hiệp, Hóc Môn (phía bắc Sân bay Tân Sơn Nhất) vào lúc 9 giờ 30 phút, ngày 30/4/1975 Nguyễn Văn Thoa được tặng thưởng 13 huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, 3 Huân chương chiến công và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Các xạ thủ A-72 Việt Nam có thành tích cao nhất gồm có: Hoàng Văn Quyết (bắn rơi 16 máy bay), Nguyễn Văn Thoa (bắn rơi 13 máy bay), Nguyễn Đắc Luận (bắn rơi 9 máy bay), Trần Văn Xuân (bắn rơi 8 máy bay), Trần Quang Thắng (bắn rơi 7 máy bay)... Với 16 máy bay, Hoàng Văn Quyết hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số lượng máy bay mà 1 người lính bộ binh bắn hạ được trong thực chiến.

Riêng Tiểu đoàn 172 tên lửa A-72 đã có 17 cán bộ, chiến sĩ được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Dưới đây là danh sách chưa đầy đủ, gồm:

  • Đại đội 3 tiểu đoàn 172 (được Phong tặng đanh hiệu Đơn vị Anh hùng năm 1976): Bùi Anh Tuấn (dùng 5 tên lửa bắn rơi 6 máy bay, hy sinh ngày 10/3/1973) Hoàng Văn Quyết (bắn rơi 16 máy bay, kỷ lục về số máy bay bắn hạ được) Trần Văn Xuân (bắn rơi 8 máy bay) Phan Kim Kỳ (bắn rơi 6 máy bay) Nguyễn Văn Thoa (bắn rơi 13 máy bay) Nguyễn Ngọc Chiến (bắn rơi 6 máy bay) ** Nguyễn Quang Lộc (bắn rơi 5 máy bay)
  • Đại đội 4 tiểu đoàn 172 (bắn rơi 56 máy bay Mỹ, được Phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng năm 2018): Vũ Danh Tòng Nguyễn Văn Toản (bắn rơi 5 máy bay) ** Trần Quang Thắng (bắn rơi 7 máy bay)

Trong xung đột ở biên giới Thái Lan các năm 1983-1985, quân Việt Nam dùng Strela-2 hạ thêm ít nhất là 02 chiếc máy bay cường kích A-37 của Không quân Thái Lan.

Các quốc gia sử dụng

nhỏ|phải|Một người lính với ống phóng Strela.

  • (đã ngừng sử dụng)
  • (đã ngừng sử dụng)
  • (đã ngừng sử dụng)
  • (chuyển từ quân đội Đông Đức cũ, đã ngừng sử dụng)
  • (đã ngừng sử dụng)
  • (Quân đội Cộng hòa Ailen)
  • (thay thế bằng Misagh-2)
  • (đã ngừng sử dụng)
  • (sử dụng phiên bản nội địa CA-94)
  • (đã ngừng sử dụng)
  • Một số tổ chức khủng bố, dân quân.

    Đã từng sử dụng

  • Chuyển cho các nước Xã hội Chủ nghĩa và giao cho tất cho Nga
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**9K32 "Strela-2"** (tiếng Nga 9К32 "Стрела-2", ký hiệu của NATO **SA-7 "Grail"**) là một tên lửa phòng không vác vai, tương tự như loại FIM-43 Redeye của Hoa Kỳ. Loại tên lửa này có điều
**9K34 Strela-3** (;nghĩa là "mũi tên") là một hệ thống phòng không cá nhân (MANPADS) do Liên Xô phát triển nhằm thay thế hệ thống 9K32 Strela 2 (SA-7 Grail). "9K34" là mã định danh
**Mil Mi-2** (tên hiệu NATO là "Hoplite") là một trực thăng quân sự đa nhiệm hạng nhẹ bọc thép, vừa có chức năng là trực thăng vận tải, vừa có thể có chức năng yểm
**9K35 _Strela-10**_ (; - mũi tên) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp điều khiển bằng hồng ngoại/quang học, có độ cơ động cao. "9K35" là tên định danh GRAU của
**ZU-23-2 "Sergei"**, hay **ZU-23**, là một loại pháo phòng không bán cố định, có chế độ bắn tự động, nòng đôi cỡ nòng 23 mm do Liên Xô nghiên cứu và chế tạo. ZU là viết
**9K31 _Strela-1**_ (; - mũi tên) là một hệ thống tên lửa đất đối không điều khiển bằng hồng ngoại tầm thấp, cự ly ngắn và có độ cơ động cao. Nguyên bản của hệ
**Sư đoàn 304**, mật danh là **Đoàn Vinh Quang**, Sư đoàn 304 là 1 trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc biên chế của Quân khu
thumb|right|Một tên lửa phòng không vác vai [[9K32 Strela-2 của Liên Xô.]] **Tên lửa phòng không vác vai** hay **Hệ thống tên lửa phòng không vác vai** tên tiếng Anh là **Man-portable air-defense systems** (**MANPADS**
**HQ-272** thuộc **(lớp tàu TT-400TP)** là một tàu tuần tra được biên chế tại vùng II Hải quân, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là tàu chiến đầu tiên do
**HQ-275** thuộc **(lớp tàu TT-400TP)** là một tàu tuần tra được biên chế tại Lữ đoàn 172, vùng III Hải quân, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là tàu chiến
Tên ký hiệu của NATO cho series **SA** tên lửa đất đối không, với các thiết kết của Liên Xô: * SA-1 "Guild" (S-25 _Berkut_) * SA-2 "Guideline" (V-75 _Dvina_/_Volkhov_/_Desna_) * SA-3 "Goa" (S-125 _Nyeva_)
**TT-400TP** là một lớp tàu pháo do Công ty đóng tàu Hồng Hà - Việt Nam tự sản xuất dựa trên bản thiết kế sơ bộ mua từ nước ngoài. TT là viết tắt của
**Lockheed AC-130** là loại máy bay hỗ trợ hỏa lực mặt đất được phát triển trên khung thân của máy bay vận tải chiến lược hạng trung C-130. Khung cơ bản của máy bay do
Các chuyên gia quân sự Liên Xô huấn luyện tên lửa và các học viên Việt Nam tại một căn cứ ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1965. **Binh chủng Tên lửa phòng
**BGM-109 Tomahawk** là loại tên lửa hành trình với nhiều biến thể, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, được phóng đi từ các hệ thống phóng mặt đất, chiến hạm hoặc tàu ngầm
**Lớp tàu phóng lôi _Shershen**_ (tiếng Anh:’’ Turya class torpedo boat’’,tiếng Nga:’’Торпедные катера проекта 206’’) là tên ký hiệu của NATO cho loại **tàu phóng lôi lớp T-3** do Liên Xô nghiên cứu và sản
Sau đây là **danh sách tên lửa** và các loại tên lửa. ## Danh sách tên lửa theo loại * **Tên lửa dẫn hướng thường dùng** ** Tên lửa không đối không ** Tên lửa
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
thumb|[[UH-60 Black Hawk, đang vận chuyển quân đội trong một cuộc tập trận tấn công trên không.]] **Trực thăng vận** () là hoạt động tấn công của các lực lượng vũ trang tác chiến dựa
**Đường Trường Sơn** hay **đường mòn Hồ Chí Minh** () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**AIM-120 AMRAAM** (**Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile** - **AMRAAM**) (được đọc là "am-ram") là một tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) hoạt động mọi thời tiết do Mỹ sản xuất. Tên lửa có
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**Đạn tự hành**, **phi đạn** hay **tên lửa tự hành** là hệ thống đạn dẫn đường chính xác tự di chuyển đến mục tiêu và tác động vào đường đi trong khi di chuyển để
**Pokpung-ho** (Hangul: 폭풍호, Hanja: 暴風號, Hán Việt: _Bão Phong hạo_), được định danh chính thức là **Chonma-215** và **Chonma-216**, là một họ xe tăng của CHDCND Triều Tiên được phát triển vào đầu thập niên
**Danh sách vũ khí hiện đại** là danh sách của các loại vũ khí đang được nghiên cứu, phát triển và được sản xuất trên thế giới. ## Danh sách theo nước _Xem tại trang
**Chiến dịch sự giận dữ của Chúa trời** (, _Mivtza Za'am Ha'el_) cũng được gọi là **Chiến dịch Bayonet**, là một chiến dịch mật do Israel và Mossad chỉ đạo nhắm tới các cá nhân
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
Thiếu úy **Nguyễn Văn Thoa** (1952), Kỹ sư nông nghiệp, Dũng sĩ diệt máy bay Mỹ ngụy, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. ## Thân thế Nguyễn Văn Thoa, sinh năm 1952 –
**MT-LB** (, **M**nogotselevoy **T**yagach **L**ekhko **B**ronirovannyi, có nghĩa là _Xe hỗ trợ kỹ thuật bánh xích đa dụng_) là một xe bọc thép hỗ trợ kỹ thuật bánh xích đa dụng do Liên Xô chế
**Lực lượng Mặt đất Lực lượng Vũ trang Liên Xô** () là nhánh lục quân của Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Là một lực lượng độc lập của Lực lượng Vũ trang Liên Xô,
**Lớp Kilo** là tên định danh của NATO chỉ một loại tàu ngầm quân sự chạy bằng diesel-điện cỡ lớn được chế tạo tại Nga. Tên gọi chính thức của Nga đặt cho lớp tàu
**Danh sách trang thiết bị quân sự sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh** là bảng tổng hợp các loại vũ khí và các trang bị quân sự được sử dụng bởi các quốc gia
**Alexander Igoryevich Rybak** (Tiếng Nga: Алекса́ндр И́горевич Рыба́к, tiếng Belarus: Аляксандр І́гаравіч Рыбак), sinh ngày 13 tháng 5 năm 1986 ở Minsk, Belarus) là một nhạc công violon, ca sĩ, nhà soạn nhạc và diễn
**9M337 Sosna-R** (Chi Thông)** (SA-X-25)** là loại tên lửa đất đối không siêu âm (Mach 2.6) hai tầng. Nó được sử dụng trong hệ thống phòng không tầm ngắn Sosna-R được thiết kế để bảo
thumb|Bản sao của vệ tinh Iridium thumb|Đồ họa kỹ thuật số của vệ tinh Strela-2M Vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, vệ tinh liên lạc đang hoạt động Iridium 33 của Mỹ và vệ
**Kosmos-2251**, ( nghĩa là _Cosmos 2251_), là một vệ tinh liên lạc Strela-2M của Nga. Nó được phóng lên quỹ đạo Trái Đất tầm thấp từ Địa điểm 132/1 tại Sân bay vũ trụ Plesetsk
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Sukhoi Su-7** (tên ký hiệu của NATO là** Fitter**) là một loại máy bay cánh cụp, động cơ phản lực, nó có thể vừa ném bom vừa tiêm kích, đây là một mẫu máy bay
**Hệ thống tên lửa Tor** (; ) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, phương tiện bay
**Không quân Liên bang Nga** (tiếng Nga: Военно-воздушные cилы России, chuyển tự: _Voyenno-vozdushnye sily Rossii_) là lực lượng Phòng không - Không quân cấp quân chủng của Nga. Hải quân Nga cũng có lực lượng
**Zastava M93** (còn được biết đến như Crna Strela (Црна стрела)) là súng bắn tỉa công phá được phát triển và chế tạo bởi Zastava Arms ở Serbia. M93 Black Arrow được thiết kế với
**Trung tâm nghiên cứu và chế tạo Khrunichev (Krunichev State Research and Production Space Center)** (tiếng Nga: _ГКНПЦ им. М. В. Хру́ничева_) là một công ty chuyên sản xuất chế tạo tàu vũ trụ và
**Tàu quét mìn lớp Avkvamarin** (tiếng Nga: _Аквамарин_, Ngọc xanh biển), tên hiệu của NATO là **Yurka** (Đề án 266 Rubin)/**Natya** (Đề án 266M), là loại tàu quét mìn do Liên Xô thiết kế và
phải|nhỏ|Trụ sở NPO Almaz tại Moscow (xây dựng năm 1953) Công ty cổ phần **NPO Almaz mang tên A.A. Raspletin** (, trước đây là **SB-1**, 1947–50; **KB-1**, 1950–66; **MKB Strela**, 1966–71; **TsKB Almaz**, 1971–88; **NPO
**JSC "Khartron"** (**Hartron**) (Ukrainian: Хартрон, trước đây là **NPO "Electropribor"**, Russian: НПО "Электроприбор", nghĩa là Liên hiệp khoa học sản xuất thiết bị điện tử; còn biết tới dưới tên viện **NII-692** hoặc **OKB-692**; sau