✨Stadtholder

Stadtholder

thumb|[[Willem van Oranje là một stadtholder trong Cuộc nổi dậy Hà Lan chống lại Đế quốc Tây Ban Nha.]] Stadtholder (tiếng Hà Lan: stadhouder ), tại Vùng đất thấp, stadhouder là một quan chức thời Trung cổ và sau đó là lãnh đạo quốc gia. Nó được tạo ra để thay thế Công tước hoặc Bá tước tại các tỉnh trong thời kỳ Burgundian và Habsburg (1384 - 1581/1795).

Chức danh này được sử dụng cho quan chức có nhiệm vụ duy trì hòa bình và trật tự cấp tỉnh trong thời kỳ đầu của Cộng hòa Hà Lan và đôi khi trở thành nguyên thủ quốc gia trên thực tế của Cộng hòa Hà Lan trong suốt thế kỷ XVI-XVIII. Trong nửa thế kỷ tồn tại, nó đã trở thành địa vị cha truyền con nối chính thức dưới thời Thân vương William IV của Orange. Con trai của ông, Thân vương William V, là stadtholder cuối cùng của nước cộng hòa, con trai của William V là Willem Frederik, trở thành vị vua có chủ quyền đầu tiên của Vương quốc Hà Lan, và Hoàng tộc Orange-Nassau của ông đã trị vì Hà Lan cho đến tận ngày nay.

Chức danh stadtholder của Hà Lan gần như có thể so sánh với danh hiệu lịch sử Hộ quốc công của Vương quốc Anh và danh hiệu Toàn quyền của Na Uy.

Như một hình mẫu chính trị

Stadtholder đã được Nhóm lập quốc Hoa Kỳ lấy làm hình mẫu chính trị cho quyền lực hành pháp - ví dụ như Oliver Ellsworth lập luận rằng nếu không có ảnh hưởng của nó ở Các tỉnh Thống nhất Hà Lan, thì "cỗ máy chính quyền của họ sẽ không hoạt động được, giống như một con tàu không thể di chuyển khi không có gió ".

Từ nguyên

Lịch sử

Mười bảy tỉnh

Cộng hoà Hà Lan

Bãi bỏ và chuyển sang chế độ quân chủ

Nguồn và Tham khảo

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Willem van Oranje là một _ stadtholder _ trong Cuộc nổi dậy Hà Lan chống lại Đế quốc Tây Ban Nha.]] **Stadtholder** (tiếng Hà Lan: _stadhouder_ ), tại Vùng đất thấp, _stadhouder_ là một quan
Bá tước **Henry III xứ Nassau-Dillenburg-Dietz** (tiếng Đức: _Heinrich III_; tiếng Anh: _Henry III_; tiếng Hà Lan: _Hendrik III_; 12 tháng 1 năm 1483, Siegen – 14 tháng 9 năm 1538, Breda), Lãnh chúa, Nam
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**Các tỉnh Thống nhất Hà Lan**, hoặc **Các tỉnh thống nhất**, **Các tỉnh liên hiệp** (tiếng Hà Lan: _Republiek der Zeven Verenigde Nederlanden_) hay **Cộng hoà Hà Lan Thống nhất**, **Cộng hoà Bảy Tỉnh Thống
**Lãnh địa Overijssel** hay **Overissel** (tiếng La Tinh: Transisalania, tiếng Hà Lan: Heerlijkheid Overijssel, tiếng Anh: Lordship of Overijssel) là một lãnh địa được lập ra bởi Nhà Habsburg vào năm 1528, từ một phần
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_
**Lãnh chúa Utrecht** (tiếng Hà Lan: _Heerlijkheid Utrecht _) được thành lập vào năm 1528 khi Hoàng đế Karl V của Nhà Habsburg chinh phục Giáo phận vương quyền Utrecht, trong Chiến tranh Guelders. Năm
**Công quốc Bukovina** (; ; ) là một lãnh địa cấu thành của Đế quốc Áo từ năm 1849 và một lãnh địa hoàng gia Cisleithania của Áo-Hung từ 1867 đến 1918. ## Tên gọi
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Lãnh địa Groningen** (tiếng Hà Lan: _Heerlijkheid Groningen_) là một vùng đất lịch sử do một lãnh chúa cai trị nằm dưới quyền của Quân chủ Habsburg, chính thức thành lập vào năm 1536, sau
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
right|thumb**Cornelis van der Aa** (Leiden, ngày 22 tháng 10 năm 1749 - Amsterdam, 1816) là một người bán sách ở Haarlem cho đến khi ông bị kết án vào năm 1796 bởi các schepenen của
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Willem IV** (tiếng Hà Lan: _Willem Karel Hendrik Friso_; 1 tháng 9 năm 1711 – 22 tháng 10 năm 1751) là Thân vương xứ Oranje từ khi mới sinh ra và là _stadtholder_ cha truyền
**Lãnh địa Frisia** (Tiếng Tây Frisia: _Hearlikheid Fryslân_; tiếng Hà Lan: _Heerlijkheid Friesland_) là một lãnh địa phong kiến ​​ở Hà Lan. Nó được thành lập vào năm 1498 bởi Hoàng đế Maximilian I của
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
**Đại công quốc Posen** (tiếng Đức: _Großherzogtum Posen_; tiếng Ba Lan: _Wielkie Księstwo Poznańskie_; tiếng Anh: _Grand Duchy of Posen_) là một phần của Vương quốc Phổ, được tạo ra từ các vùng lãnh thổ
**Vương quốc Frisia** (Frisia: _Fryske Keninkryk_), còn gọi là **Magna Frisia**, là tên gọi hiện nay dành cho đế quốc Frisia vào thời kỳ đỉnh cao của nó (650-734). Đế quốc này nằm dưới sự
**René xứ Chalon** (05 tháng 02 năm 1519 - 15 tháng 07 năm 1544), còn được gọi là **Renatus xứ Chalon**, ông là Thân vương xứ Orange và stadtholder của các xứ Holland, Zeeland, Utrecht
**Thân vương quốc Nassau-Orange-Fulda** (tiếng Đức: _Fürstentum Nassau-Oranien-Fulda_), đôi khi còn được gọi là **Thân vương quốc Fulda và Corvey**, nó là một thân vương quốc thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, tồn tại
**Mary Henrietta của Anh hay Mary Henrietta, Vương nữ Vương thất** (tiếng Anh: _Mary Henrietta of England_, _Mary Henrietta, Princess Royal_; 4 tháng 11 năm 1631 - 24 tháng 12 năm 1660), là một Vương