✨Shiratsuyu (lớp tàu khu trục)

Shiratsuyu (lớp tàu khu trục)

Lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ (tiếng Nhật: 白露型駆逐艦 - Shiratsuyugata kuchikukan) là một lớp bao gồm mười tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Bối cảnh

Sáu chiếc đầu tiên trong lớp Shiratsuyu là những phiên bản cải biến dựa trên thiết kế của lớp tàu khu trục Hatsuharu, nguyên được dự định như sáu chiếc cuối cùng của lớp này như một phần của cái gọi là Chương trình Bổ sung Vũ khí Hải quân Nhật Bản (1931) (Maru Ichi Keikaku). Tuy nhiên, những vấn đề về thiết kế đối với lớp Hatsuharu, đặc biệt là thiết kế tương đối "nặng đầu" so với một trọng lượng choán nước nhỏ, đưa đến những sự cải biến rộng rãi, đến một mức mà sáu chiếc đặt hàng sau cùng được đặt tên như một lớp riêng biệt. Sau đó có thêm bốn chiếc được đặt hàng trong Chương trình Bổ sung Vũ khí Hải quân Nhật Bản thứ hai (1934) thuộc tài khóa 1934, và mọi chiếc được hoàn tất vào năm 1937.

Giống như lớp Hatsuharu, lớp tàu khu trục Shiratsuyu được thiết kế để tháp tùng lực lượng tấn công chủ lực của Hải quân Nhật Bản, và để tiến hành những cuộc tấn công cả ngày và đêm bằng ngư lôi nhằm vào Hải quân Hoa Kỳ khi chúng vượt băng qua Thái Bình Dương, theo kế hoạch của học thuyết chiến lược hải quân Nhật Bản. Mặc dù là một trong những lớp tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới khi hoàn tất, không có chiếc nào sống sót qua cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.

Thiết kế

Rút kinh nghiệm từ sự cố Tomozuru và sau đó là sự cố hạm đội bốn, lớp Shiratsuyu được thiết kế để khắc phục vấn đề của lớp Hatsuharu tiền nhiệm. Trong cách bố trí chung, những chiếc trong lớp Shiratsuyu gần giống với lớp phụ Ariake, phiên bản sau cùng của lớp Hatsuharu, chỉ khác biệt thiết kế cầu tàu gọn hơn và kiểu dáng cùng độ nghiêng của các ống khói. Lườn tàu giữ lại cấu hình chung của lớp Hatsuharu với một sàn trước kéo dài, và mũi tàu được loe ra rõ rệt để cải thiện tính năng đi biển ở tốc độ cao bằng cách tăng độ nổi và giảm thiểu bụi nước trên sàn tàu.

Lớp Shiratsuyu là những tàu chiến Nhật Bản đầu tiên được hoàn tất với bệ phóng ngư lôi bốn ống và liên lạc điện thoại nội bộ đến trạm điều khiển ngư lôi. Giống như lớp Hatsuharu, các ống phóng ngư lôi được cung cấp một lớp vỏ bảo vệ cho phép sử dụng chúng ngay cả khi biển động và bảo vệ khỏi những hư hại do mảnh đạn pháo.

Động lực

Lớp Shiratsuyu, giống như lớp Hatsuharu dẫn trước, mang hai bộ turbine hơi nước hộp số Kampon, mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực thấp và một áp lực cao, cùng với một turbine đường trương kết nối với turbine áp lực cao. Các turbine trên được nối với trục chân vịt bởi một hộp số giảm tốc hai bánh răng. Chân vịt có đường kính và bước xoắn . Tổng công suất của lớp Shiratsuyu chỉ có so với của lớp Fubuki dẫn trước, nhưng hệ thống động lực nhẹ hơn và có hiệu suất tốt hơn đáng kể. Hệ thống động lực của Shiratsuyu chỉ nặng so với của Fubuki, tức là 396 mã lực càng mỗi tấn so với 347 mã lực mỗi tấn trên những lớp tàu trước đó.

Tương tự, ba nồi hơi Kampon kiểu Ro-Gō sử dụng cho lớp Shiratsuyu nặng so với nồi hơi nặng của lớp Fubuki, nhưng sản sinh công suất mỗi chiếc trong khi nồi hơi cũ chỉ có . Điều này đã cung cấp một chỉ số 3,6 kg mỗi mã lực trên chiếc Shiratsuyu so với 4,1 kg mỗi mã lực trước đây. Thiết kế mới hơn của nồi hơi cũng sử dụng hơi nước ở áp suất giống như kiểu cũ, nhưng áp dụng kỹ thuật siêu đốt nóng để cải thiện hiệu suất trong khi các nồi hơi cũ đơn giản chỉ sử dụng hơi nước bảo hòa.

Một máy phát điện turbine 100 kW được đặt sau hộp số giảm tốc trong một khoang riêng biệt, và hai máy phát điện diesel 40 kW được đặt giữa các trục chân vịt. Vào lúc hoàn tất, lớp Shiratsuyu có tầm hoạt động ở tốc độ với nhiên liệu.

Vũ khí trang bị

Những tàu khu trục lớp Hatsuharu sử dụng cùng kiểu Hải pháo 127 mm/50 Loại 3 đã trang bị cho lớp Fubuki, nhưng mọi tháp pháo đều có thể nâng đến một góc 75°, cho phép dàn pháo chính có khả năng tối thiểu đương đầu với máy bay. Trong chiến tranh, tháp pháo nòng đơn được tháo dỡ trên mọi chiếc còn lại, thay thế bởi 13 đến 21 pháo phòng không Hotchkiss Kiểu 96 25 mm trên những tháp súng nòng đôi và ba nòng. Những khẩu đội 25 mm vận hành bằng điện này không thỏa đáng, vì tốc độ xoay và nâng của chúng quá chậm không thể đối đầu với máy bay tốc độ cao, nên có thêm các khẩu đội nòng đơn được trang bị cho các con tàu vào năm cuối cùng của chiến tranh.

Ngư lôi 610 mm Kiểu 90 được trang bị trên các ống phóng Kiểu 92 bốn nòng, có nguồn gốc từ loại ống phóng Kiểu 89 nòng đôi được sử dụng trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Takao. Các tấm chắn được lắp đặt cho cả bệ phóng ngư lôi lẫn kho chứa ngư lôi để bảo vệ chúng không bị ảnh hưởng bởi thời tiết và sự bắn phá của máy bay. Thoạt tiên các tấm chắn được làm bằng duralumin để tiết kiệm trọng lượng, nhưng chúng nhanh chóng bị ăn mòn nên cần có biện pháp thay thế. Thép "NiCrMo", lấy ra từ các buồng hơi của những quả ngư lôi lạc hậu với độ dày 3 mm, được chọn dùng làm tấm chắn mới để tiết kiệm trọng lượng. Nó được xoay bằng một hệ thống điện-thủy lực, và có thể xoay 360° trong vòng 25 giây; nếu hệ thống quay tay dự phòng được sử dụng, thời gian cần đến là hai phút. Mỗi ống phóng ngư lôi có thể nạp lại trong vòng 23 giây sử dụng dây tời.

Thoạt tiên chỉ có 18 mìn sâu được mang theo trên một đường ray phía đuôi tàu, nhưng được tăng lên 36 quả vào mùa Thu năm 1942. Hình như không có thiết bị sonar hay bộ dò âm dưới nước nào được trang bị cho đến khi chiến tranh nổ ra, khi bộ sonar Kiểu 93 và bộ dò âm dưới nước Kiểu 93 được bổ sung. Cả hai đều kém hơn so với những thiết kế đương thời của Anh và Mỹ.

Radar

Radar đã không được trang bị cho những chiếc còn lại của lớp này cho đến tận cuối chiến tranh, có lẽ vào cuối năm 1944. Chúng được gắn một radar Kiểu 22 trên cột ăn-ten trước, Kiểu 13 trên cột ăn-ten chính và một thiết bị chống radar Kiểu E-27 cao bên trên cột ăn-ten trước. nhưng cuối cùng cũng bị tàu ngầm Mỹ Blackfin đánh chìm trong vịnh Thái Lan vào đầu năm 1945

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục _Shiratsuyu**_ (tiếng Nhật: 白露型駆逐艦 - Shiratsuyugata kuchikukan) là một lớp bao gồm mười tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến
nhỏ|Hình ảnh về lớp _Asashio_ **Lớp tàu khu trục _Asashio**_ (tiếng Nhật: 朝潮型駆逐艦 - Asashio-gata kuchikukan) là một lớp mười tàu khu trục của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã phục vụ trước và
**_Shiratsuyu_** (tiếng Nhật: 白露) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của _lớp tàu khu trục Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Shiratsuyu_ đã từng
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Kawakaze_** (tiếng Nhật: 江風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Kawakaze_ đã từng tham gia các hoạt
nhỏ|_Harusame_ bị trúng ngư lôi bởi _Wahoo_ **_Harusame_** (tiếng Nhật: 春雨) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc.
**_Murasame_** (tiếng Nhật: 村雨) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Murasame_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**_Suzukaze_** (tiếng Nhật: 涼風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Suzukaze_ đã từng tham gia các hoạt
**_Umikaze_** (tiếng Nhật: 海風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Umikaze_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**_Yamakaze_** (tiếng Nhật: 山風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Yamakaze_ đã từng tham gia các hoạt
**_Yudachi_** (tiếng Nhật: 夕立) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Yudachi_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**_Ariake_** (tiếng Nhật: 有明) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Ariake_ đã tham
**_Yugure_** (tiếng Nhật: 夕暮; Hán Việt: _Tịch mộ_; chiều tà) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong
**_Wakaba_** (tiếng Nhật: 若葉) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Wakaba_ đã tham
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
nhỏ|phải|_Ikazuchi_ trên đường đi ngoài khơi Trung Quốc, năm 1938 **_Ikazuchi_** (tiếng Nhật: 雷) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ
**_Nenohi_** (tiếng Nhật: 子日) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Nenohi_ đã tham
nhỏ|phải|_Akatsuki_ trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]] **_Akatsuki_** (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc
**_Natsugumo_** (tiếng Nhật: 夏雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Yamagumo_** (tiếng Nhật: 山雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
nhỏ|phải|Tàu khu trục _Asashio_ **_Asashio_** (tiếng Nhật: 朝潮) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó bao gồm mười chiếc
**_Arare_** (tiếng Nhật: 霰) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Asagumo_** (tiếng Nhật: 朝雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Michishio_** (tiếng Nhật: 満潮) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Arashio_** (tiếng Nhật: 荒潮) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Ōshio_** (tiếng Nhật: 大潮 - Hán-Việt: Đại Triều) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo
**_Kasumi_** (tiếng Nhật: 霞) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Minegumo_** (tiếng Nhật: 峯雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
Đây là danh sách các tàu khu trục của Nhật Bản xếp theo cuộc chiến cuối cùng mà chúng tham gia. Theo thuật ngữ hàng hải, tàu khu trục là loại tàu nhỏ, cơ động
**_Natori_** (tiếng Nhật: 名取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật Bản.
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**USS _Halibut_ (SS-232)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
thumb|Quân xưởng Hải quân Maizuru, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử nhỏ|Tàu khu
Khẩu là hải pháo hạng trung của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là vũ khí tiêu chuẩn của khu trục Nhật từ năm