✨Kawakaze (tàu khu trục Nhật)

Kawakaze (tàu khu trục Nhật)

Kawakaze (tiếng Nhật: 江風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục Shiratsuyu bao gồm mười chiếc. Kawakaze đã từng tham gia các hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, trước khi bị đánh chìm trong trận chiến vịnh Vella giữa Kolombangara và Vella Lavella, vào ngày 7 tháng 8 năm 1943.

Thiết kế và chế tạo

Lớp tàu khu trục Shiratsuyu là phiên bản cải tiến dựa trên lớp tàu khu trục Hatsuharu, được thiết kế để tháp tùng lực lượng tấn công chủ lực của Hải quân Nhật Bản, và để tiến hành những cuộc tấn công cả ngày và đêm bằng ngư lôi nhằm vào Hải quân Hoa Kỳ khi chúng vượt băng qua Thái Bình Dương, theo kế hoạch của học thuyết chiến lược hải quân Nhật Bản. Mặc dù là một trong những lớp tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới khi hoàn tất, không có chiếc nào sống sót qua cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.

Kawakaze, là chiếc thứ ba trong số bốn tàu khu trục được chế tạo trong Chương trình Bổ sung Vũ khí Hải quân Nhật Bản thứ hai (1934) (Maru Ni Keikaku); nó được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Fujinagata Shipyards vào ngày 25 tháng 4 năm 1935, được hạ thủy vào ngày 1 tháng 11 năm 1936, và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 4 năm 1937.

Lịch sử hoạt động

Vào lúc xảy ra cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, Kawakaze được phân về Đội 24 của Hải đội Khu trục 4 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản cùng với các tàu chị em Umikaze, YamakazeSuzukaze; và đã khởi hành từ Palau tham gia cuộc chiếm đóng Philippines ("Chiến dịch M"), hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lên Legaspi và vịnh Lamon.

Từ tháng 1 năm 1942, Kawakaze tham gia các hoạt động tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, bao gồm việc chiếm đóng đảo Tarakan, Balikpapan và Makassar. Sau khi tham gia chiếm đóng khu vực Đông Java, Kawakaze đối đầu cùng một nhóm tàu tuần dương và tàu khu trục Đồng Minh trong trận chiến biển Java, được ghi nhận đã trợ giúp vào việc đánh chìm USS Pope, HMS Exeter và HMS Encounter, và đã cứu vớt 35 thủy thủ Anh từ cả hai con tàu. Trong tháng 4, Kawakaze đã trợ giúp vào việc chiếm đóng Panay và Negros tại Philippines. Từ ngày 10 tháng 5, nó được phân về Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã quay về Xưởng hải quân Sasebo để sửa chữa vào cuối tháng 5.

Trong thời gian diễn ra trận Midway vào các ngày 4–6 tháng 6, Kawakaze nằm trong thành phần lực lượng chiếm đóng quần đảo Aleut dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Shirō Takasu. Tuy nhiên, nó được điều trở lại Hạm đội 2 vào ngày 14 tháng 7 sau khi chiến dịch Midway bị hủy bỏ, và đi đến Truk vào giữa tháng 8 cùng với tàu sân bay Chitose. Vào ngày 21 tháng 8, trong khi tuần tra ngoài khơi Guadalcanal, Kawakaze đã đánh chìm tàu khu trục Mỹ USS Blue. Nó đã tham gia bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal vào ngày 24 tháng 8, và nằm trong thành phần hộ tống các tàu chở binh lính Nhật trong Trận chiến Đông Solomons.

Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 11, Kawakaze thực hiện mười chuyến vận chuyển tốc độ cao "Tốc hành Tokyo" và bắn phá bờ biển đến Guadalcanal, cũng như tham chiến một thời gian ngắn trong trận Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10 dưới quyền Đô đốc Nobutake Kondō. Trong trận Hải chiến Guadalcanal thứ nhất vào đêm 12–13 tháng 11 năm 1942, Kawakaze đã cứu 550 người sống sót từ chiếc tàu chở binh lính Brisbane Maru bị trúng ngư lôi. Trong thời gian còn lại của tháng 11, Kawakaze tuần tra trong khu vực giữa đảo Shortland, Buna và Rabaul. Trong trận Tassafaronga vào ngày 30 tháng 11, ngư lôi của Kawakaze có thể đã đánh trúng tàu tuần dương hạng nặng Mỹ USS Pensacola.

Từ tháng 12 năm 1942 đến cuối tháng 1 năm 1943, Kawakaze tiếp tục các nhiệm vụ vận chuyển đến Guadalcanal và đến Kolombangara, rồi chuyển sang các nhiệm vụ triệt thoái lực lượng khỏi Guadalcanal từ tháng 2. Vào ngày 9 tháng 2, nó bị hư hại đáng kể khi va chạm với tàu chở hàng Toun Maru, và phải được tàu khu trục Kuroshio kéo về Rabaul để được sửa chữa khẩn cấp, cho phép nó có thể cố lếch về Sasebo vào tháng 5. Công việc sửa chữa hoàn tất vào cuối tháng 5, khi Kawakaze quay trở lại Truk, tham gia chuyển binh lính đến Nauru vào đầu tháng 6, Kwajalein vào cuối tháng 6 và đến Tuluvu vào ngày 1 tháng 8.

Vào ngày 7 tháng 8 năm 1943, Kawakaze thực hiện chuyến đi vận chuyển binh lính đến Kolombangara. Trong Trận chiến vịnh Vella, nó bị đánh chìm ở giữa Kolombangara và Vella Lavella bởi hải pháo và ngư lôi từ các tàu khu trục Mỹ USS Dunlap, USS Craven và USS Maury ở tọa độ . Trong số thủy thủ đoàn, 169 người đã thiệt mạng bao gồm thuyền trưởng, Thiếu tá Hải quân Yanase.

Kawakaze được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 10 năm 1943.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Kawakaze_** (tiếng Nhật: 江風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Kawakaze_ đã từng tham gia các hoạt
**_Suzukaze_** (tiếng Nhật: 涼風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Suzukaze_ đã từng tham gia các hoạt
**_Umikaze_** (tiếng Nhật: 海風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Umikaze_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**_Yamakaze_** (tiếng Nhật: 山風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Yamakaze_ đã từng tham gia các hoạt
**Lớp tàu khu trục _Kawakaze**_ (tiếng Nhật: 江風型駆逐艦 - Kawakazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Urakaze**_ (tiếng Nhật: 浦風型駆逐艦 - Urakazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai tàu khu trục hạng nhì được hãng đóng tàu Yarrow tại Scotland chế tạo cho Hải quân Đế
Đây là danh sách các tàu khu trục của Nhật Bản xếp theo cuộc chiến cuối cùng mà chúng tham gia. Theo thuật ngữ hàng hải, tàu khu trục là loại tàu nhỏ, cơ động
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_Naka_** (tiếng Nhật: 那珂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Naka tại tỉnh Tochigi và Ibaraki ở
**USS _Sterett_ (DD-407)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Lang_ (DD-399)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Blue_ (DD-387)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Stack_ (DD-406)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**HMS _Exeter_ (68)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp _York_. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai khi đối đầu với
**Cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lamon của Nhật Bản** (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Look ng Lamon) là nhiệm vụ thứ hai trong cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lingayen
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi